Hải, Phạm Hòa, Đặng Để, Châu
Hồ Hùng Dũng và Nguyễn Trường Khanh
DD765, TD11 THSQNT - K10B72-SQTB
Hồ Hùng Dũng và Nguyễn Trường Khanh
DD765, TD11 THSQNT - K10B72-SQTB
từ trung tâm 3
tuyển mộ nhập ngũ
qua Quang
Trung
đến Ðồng Ðế - Nha Trang
Minh
Vũ
hồi ký
Sau khi trình giấy tờ
và hoàn tất mọi thủ tục tại Phòng Tuyển
mộ Nhập ngũ Quân vụ thị trấn Sàigòn-Gia
định, chúng tôi được chỉ định lên
xe GMC không có mui che đậu sẵn ở trước
cửa. Mỗi xe chở 30 tân binh, đoàn xe trực
chỉ đi đến Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập
ngũ.
Xe đi trở lại về hướng chợ Hòa
Hưng, qua chợ Ông Tạ, đến ngả tư
Bảy Hiền, rồi thẳng đường đi Quang
Trung.
Tôi ngồi yên lặng trên băng xe phía sau, nhìn
những quang cảnh sinh hoạt quen thuộc của
đường Lê văn Duyệt, con đường mà tôi
đã lớn lên với tuối học trò của những
buổi trưa nắng, buổi chiều mưa…Tôi mở
mắt to nhìn lại một lần chót, trước khi tôi
rời xa khung cảnh thân thương quen thuộc ấy.
Xe cộ vẫn tấp nập ồn ào, con
đường vẫn xôn xao như ngày nào.
Thấy đoàn xe chở tân binh đi ngang qua, dân chúng hai bên
đường vẫy tay chào tạm biệt. Tôi nghe
tiếng la ó từ trên xe của những người
bạn tân binh vẫy tay chào lại, nhất là
mỗi khi xe đi qua mặt các cô thiếu nữ đang
đi xe đạp, xe gắn máy …
Trung Tâm 3 Tuyển Mộ
Nhập ngũ
Ðoàn xe rẽ vào
cổng Trung Tâm 3 Tuyễn Mộ Nhập Ngũ và đi theo
con đường quanh co dọc theo các dãy nhà, trại làm
việc. Xe ngừng lại. Chúng tôi được lệnh
xuống xe, xếp hàng ngồi chồm hỗm chờ các
cán bô Trung Tâm sắp xếp công việc. Sau khi
được các Cán bộ Trung Tâm 3 cấp phát quân trang
tạm thời, đọc cho ghi số quân, trời đã
gần nửa đêm, chúng tôi được các cán bộ
TT3 dẫn đi đến các barrack để tìm chổ
nghỉ lưng tạm, chờ sáng hôm sau làm việc
tiếp.
Giường ngủ là hai dãy nền xi măng, chiều
ngang khoảng 2m5, xây cao hơn mặt nền nhà khoảng
0.5m, song song theo hai bên vách của barrack, chạy dài từ
cửa trước cho đến cửa sau. Chính giữa
barrack treo cái bóng đèn tỏa ánh sáng lờ mờ, như
thiếu hơi điện. Mọi người trưng
dụng những quân trang tạm thời vừa mới
được cấp phát, trải ra trên nền xi măng
để nằm tạm qua đêm.
Ðêm đầu tiên bắt đầu cuộc đời
lính, được nếm mùi đời có chút hơi “bụi”,
tôi cảm thấy khó ngủ vì đông đảo
người ồn ào và khói thuốc lá bay mù mịt.
Tôi nằm trăn trở, xoay mình qua lại, cố dỗ
giấc ngủ. Những hình ảnh của thành đô
cứ ẩn hiện chập chờn trước mắt.
Hình ảnh của gia đình, của bạn bè, của
người yêu, người chưa yêu, hình ảnh phố
xá tấp nập, hình ảnh căn phòng nhỏ của tôi
có kê chiếc bàn vuông và kệ sách đựng đủ
loại sách báo....
Buổi sáng ngày kế tiếp, các Tân Binh tập hợp
xếp hàng dài, ngồi xếp bằng bẹp xuống
đất, được các cán bộ của Trung Tâm 3
phát cho một xấp giấy có in sẵn các mẫu khai lý
lịch, tình trạng sức khỏe v.v…
Ngồi chờ nghe các cán bộ giải thích, chỉ
dẫn nầy nọ, nọ kia…Nắng lên, bắt
đầu cảm thấy nóng nực, mồ hôi rịnh
trên trán, hai chân tê mỏi, tôi muốn duỗi chân ra một
cái cho thoải mái…mà không duỗi ra được!
Mặt trời đã lên
đến đỉnh đầu, chúng tôi mới
được tan hàng. Mọi người tụ năm
tụm ba đứng đầy dưới những tàng
cây Bá Ðậu dọc theo hai bên con đường đi vào
dẫy nhà lợp tôn dung làm chổ làm việc cho các cán
bộ của Trung Tâm. Kẻ đi tìm nước uống,
người ngồi phì phà nhả khói …
Buổi chiều, chúng tôi được di chuyển sang
một khu trại nhà tập thể, bên trong có để
sẵn hơn 200 chiếc giường chồng hai tầng
bằng gỗ, cũ kĩ. Chúng tôi được lệnh
tạm trú tại đó, chờ đến khi có lệnh
mới.
Một bồn nước
được xe kéo đến, mọi người xúm nhau
bu quanh để chờ hứng nước vào chiếc
bình bằng nylon cá nhân, có hình dạng như cái gối
nhỏ, chứa khoảng 5 lít nước. Cảnh chen
lấn, hổn độn vô trật tự. Tôi đứng
nhìn thấy mà chán! Không hiểu tại sao dân mình gì gì
cũng dành giựt nhau, từ ăn uống ở các nhà
hàng quán, cho tới các nơi giải trí chen lẫn nhau, xô
đẩy nhau mua vé xem ciné, xem đại nhạc hội .
.
Tôi đứng chờ cho
bớt người dành giựt để hứng một
ít nước cho vào chiếc bình nylon chứa nước
của tôi, nhưng hết đợt nầy lại
đến đợt khác, người người cứ
tiếp tục giành giật. Nhìn thấy có nhiều anh
đã lấy nước xong rồi, còn trở lại
cởi áo ra tắm tại chổ, nước chảy tràn
ngập ra sân…Chán nản, tôi bỏ đi sang Câu Lạc Bộ
bên kia con đường, mua một ly cà phê đá và một
gói thuốc lá ngồi nhấm nháp.
Tôi nhả khói, nhìn sang bên kia
xem thiên hạ đang chen lấn, dành giựt la chí chóe.
Uống xong ly cà phê, phì phà vài
điếu thuốc lá, tôi đi trở về căn phòng
tập thể. Ðịnh ngả lưng ngủ một
giấc, nhưng bên trong quá nóng nực, lại ồn ào và
nực mùi khói thuốc. Tôi cũng hút thuốc lá lai rai,
nhưng còn không chịu nỗi được với mùi
khói thuốc dầy đặc nên đi ra ngoài, ngồi
dựa lưng nơi gốc cây Bá Ðậu có cành lá trải
rộng và thiu thiu ngủ.
Mặt trời xế bóng, cán
bộ Trung tâm 3 phát loa phóng thanh gọi tập hợp và có
người hướng dẫn xuống nhà Bàn (phòng
ăn)lấy thức ăn. Trong nhà tập thể đã
nóng vậy, mà nhà Bàn còn nóng hơn!
Tôi đứng chờ
đến phiên mình lấy thức ăn, mồ hôi chảy
đẩm ướt mặt mày, quần áo. Nhà Bàn phất
lên mùi hôi vì thiếu sạch sẽ. Ngửi mùi thôi.. là
thấy đã muốn nhợn ói. Tôi không biết một lát
nữa đây, thức ăn sẽ như thế nào?
Tôi chỉ lấy cơm thôi,
không lấy thức ăn vì mùi cá tanh quá! Cơm nấu trong
cái chảo to, có bỏ vitamine trên mặt màu hơi vàng.
Trở lại Câu Lạc Bộ để mua thức ăn
và ly trà đá uống để “chửa lửa”, tôi
ngồi lì bên đó cho đến chập tối, khi có
lệnh tập hợp mới trở về.
Chiều tắt nắng, không
khí dịu bớt hơi nóng. Sau khi tập hợp xong, tôi
tìm chổ tìểu tiện và tắm “dã chiến” một
phát cho khỏe người, xong trở lại chiếc
giường chồng hai tầng nằm mắm mắt..
để đó mà nghe chung quanh đầy những âm thanh
không được êm dịu. .
Buổi sáng hôm sau, thiên hạ
thức dậy ồn ào ở bồn chứa nước
để rửa mặt, đánh răng. Một vài
người xô đẩy, gây gổ dành đến phiên mình
trước. Tôi dùng lượng nước còn lại
ở trong bình dùng làm gối kê đầu để rửa
mặt, chớ không đến bồn chứa nước.
8 :30 sáng, tập hợp.
Mỗi người được phát cho một khúc bánh mì
dài chừng 6 inches và một ít đường cát trắng
để ăn với bánh mì. Sau đó cán bộ Trung Tâm
đọc tên từng người lên nhận giấy phép
cho về. Tôi không được phép về, vì bữa khai
trong phiếu sức khỏe, mắt bị cận thị,
nên họ giữ tôi lại chờ chở sang bệnh
viện Cộng Hòa khám mắt.
Tất cả
được về phép, chỉ còn khoảng 50 người
ở lại chờ đi khám bệnh. Nhìn thấy thiên
hạ đi phép mà tôi thèm thuồng. Mới xa nhà, xa thành
phố có mấy hôm, tôi tưởng chừng như cả
tháng…Tôi nhớ nhà vô cùng, nhớ phố phường,
nhớ người yêu..khoắc khoải trong lòng.
Khu nhà tập thể vắng
lặng, không tiếng ồn ào, không mùi khói thuốc lá.
Bọn người ở lại chờ đi khám sức
khỏe được tắm rửa no nê. Buổi
tối, tôi sang Câu Lạc Bộ ngồi uống cà phê, khói
lửa, nghe nhạc đến khuya mới về ngủ.
Ba ngày kế tiếp,
mỗi buổi sáng thức dậy tập họp, có xe GMC
đậu chờ sẳn chở sang nhà thương
Cộng Hòa khám mắt. Xe chạy ngang qua các khu dân cư
đang sinh hoạt, thấy không khí vui làm sao.. Nhìn
những cặp tình nhân trẻ đang chở nhau trên xe
gắn máy qua lại trông mà thấy phát thèm. Tôi liên
tưởng đến mình của những ngày tháng cách nay
hơn một tuần lễ, nữa tháng, mình cũng
hạnh phúc được làm tài xế như vậy,
rồi chợt tiếc nuối cho những ngày tháng đã
vụt qua mau..
Ðám người đi phép
trở lại, hôm sau được gọi tên, mang quân
trang lên xe GMC chờ sẵn đưa sang Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung thụ huấn Giai đoạn I Khóa Sinh
Dự Bị Sĩ Quan. Cứ mỗi ngày, ngày nào cũng có
người đi.
Năm 1972 là năm Tổng
động viên. Tất cả sinh viên học sinh nếu
không đủ điều kiện hoãn dịch theo luật
tổng động viên mới của Chính phủ phải
vào lính. Có tất cả 12 khóa Sĩ Quan Trừ Bị,
mỗi khóa có từ 500-900 người. Tôi bị kẹt
ở lại khám sức khỏe 2 tuần lễ, bị
lọt xuống đến khóa 10B/72.
Tôi được cho về
phép 3 ngày, sau khi có kết quả khám mắt. Chả
được gì! Cận nặng, cận nhẹ, cận
thị hay không cận gì cũng cá mè một lứa. Ba ngày
phép tôi ở nhà, không muốn đi đâu, không muốn
thăm em nào hết. Nằm trong Trung Tâm 3 thì nhớ nhung
đủ thứ, giờ được về nhà, tôi
lại không muốn đi đâu, mà cảm thấy lưu
luyến cái không khí gia đình mình, tôi muốn
đưọc gần gũi với cha mẹ, với anh
chị em.
Hết phép, trở lại
Trung tâm 3. Hôm sau tôi được gọi tên sang TTHL/Quang
Trung để thụ huấn giai đoạn I Khóa Sinh
Dự Bị Sĩ Quan.
Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung
Sau khi thụ huấn hết
giai đoạn I tại đây, các Khóa Sinh lên
đường đi công tác, được tạm
thời gắn Alpha.
Ðoàn xe GMC chở đám SVSQ
trở lại Quân trường Quang Trung sau hơn 2 tháng
đi công tác chiến dịch tuyên truyền cho Hiệp
Ðịnh Paris 1973.
Chúng tôi thiểu não liệng cái
ba lô nặng nề lại chiếc giường sắt 2
tầng với dáng vẽ mệt mỏi. Buối tối,
mọi người được lênh tập họp ngoài
sân của Liên Ðoàn để nghe sĩ quan cán bộ Tiểu
Ðoàn Trưởng có đôi lời và sau đó về tập
họp tại sân Ðại đội trước barrack
đang ở. Chúng tôi ngồi mà buồn ngủ, đầu
cứ gật tới, gật lui.
Không có ai giơ tay lên thắc
mắc, hay phát biểu ý kiến như những lần
trước, mà hầu hết …hình như ai cũng
chỉ chờ “tan hàng cố gắng”.
Tưởng là thiên hạ
buồn ngủ, chờ cho tan hàng để ..ngủ
nghê. Nhưng khi tan hàng rồi mọi người lại
xúm nhau chụm đầu lại chuyện trò in ỏi.
Họ kể cho nhau nghe 1001 chuyện những ngày đi
chiến dịch. Anh nào cũng móc bóp ra khoe hình ảnh
người yêu, hình má nuôi, chị nuôi, em nuôi .., không anh nào
khoe hình cha nuôi và anh nuôi!.
Riêng tôi, mấy tháng đã quen
sống thoải mái, giờ trở lại khu nhà tập
thể ồn ào, đông nghẹt hơi người, tôi
cảm thấy ngột ngạt, hơi khó chịu ..
Những ngày kế tiếp,
chúng tôi không ra bải tập mà ngồi học trong phòng.
Lệnh của Tiểu Ðoàn bảo tất cả Khóa Sinh
phải “tháo Con Cá”(Alpha) xuống, trở lại là Khóa Sinh
Dự Bị Sĩ Quan như trước.
Trở lại ăn cơm
ở nhà Bàn..ớn “ tới cổ. Bữa nào nhà Bàn cũng
thu dọn cho heo ăn mệt nghỉ. Thực phẩm mang
vào quân trường sau chiến dịch, đứa nào
cũng còn đầy ba lô, ăn cả tuần lễ
mới hết. Xuống nhà Bàn chỉ lấy cơm thôi,
rồi mang sang Câu Lạc Bộ ngồi ăn.
Những câu chuyện sau khi
đi chiến dịch về, không biết nói sau cho
hết. Hể đến giờ học thì tạm ngưng,
giờ nghỉ giải lao (Break time), giờ tan học là
thiên hạ tiếp tục quay lại “Cuốn phim tạp
lục” đi Chiến dịch trao đổi với nhau.
Có anh thì nói nhiều, có người lại ngồi
đăm chiêu trầm ngâm khó hiểu.
Tôi bắt đầu lấy
giấy bút ra viết những bức thư gởi về
thành đô cho những người tôi đã hứa. Tôi
biết trước, cố gắng tránh né không “ kết”
thêm những tình cảm vương vấn, mà giờ
nầy vẫn phải trả nợ giấy bút..viết
mỏi tay muốn rụng rời, ý là tôi cố gắng thu
gọn, chỉ viết có vài dòng, viết vắn tắt cho
mỗi bức thư.
Thư viết gởi cho
bạn bè, là tay tôi nó muốn rã rời. Tôi chưa có thì
giờ viết thư gới về cho gia đình của tôi
nữa.
Buối tối trong barrack
như ngày hội Tết, anh nào cũng ngồi kề
bên cái rương cây đựng quần áo, bên nhọn
đèn cầy cậm cụi, cấm cúi viết thư. Câu
Lạc Bộ bán sạch hết đèn cầy, các “thư
sĩ” phải trưng dụng đến đèn pin. Ðêm nào
sĩ quan cán bộ Ðại Ðội Trưởng đi
kiểm soát cũng la hét ôm xồm vì một số anh em
miệt mài “gởi dòng tâm sự” qua giấy bút, không
ngủ đúng giờ qui định. Anh em áp dung
phương cách ngụy trang “trùm mền”, mở đèn pin,
nằm xấp viết thư kín đáo.
Buổi sáng, xếp hàng đi
đến lớp học, đã có hơn phân nửa
đứng sang một bên “khai bịnh” lên bệnh xá xin thuốc,
chích thuốc. Anh em trong thời gian chiến dịch, đi
uống “cà phê sửa”, còn “dấu sửa” mang theo quân
trường. Một số khác thì cất dấu “hột
xoài, hột mít” dưới háng đêm vô quân trường
để trồng. Viên sĩ quan Ðại Ðội
Trưởng khóa sinh phải buột miệng chửi
thề:
-“Ð.M..! Thế nầy thì học
hành, tập tành cái chó gì …”
Sau hơn một tuần lễ
trở lại quân trường Quang Trung, chúng tôi
được lệnh thu xếp quân trang, sang Trại Chuyển
Tiếp để chờ đi quân trường khác
thụ huấn tiếp giai đoạn 2.
Cuộc chiến tranh Việt-nam
lên đến hồi khốc liệt từ trước và
sau “Mùa Hè đỏ lửa” năm 1972. Năm 1972, có 12 Khóa
Sĩ Quan Trừ Bị chính thức và các khóa phụ
xếp theo vần như khóa 4, 4A hay khóa 8, khóa 9A, 9B, 9C, hay
khóa 10, 10A, 10B, khóa 12, 12A, 12B v.v…, chưa kể một
số khác tình nguyện vào các binh chủng Hải Quân, Không
Quân, Vỏ Bị Ðà lạt, Trường Chiến Tranh Chính
Trị, Trường Cảnh Sát ..
Ðất nước loạn ly, thanh niên xếp bút nghiên tòng
quân nhập ngủ,
“Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Ðông, Ðông tỉnh, lên Ðoài, Ðoài tan”
Các
thanh niên, sinh viên học sinh chúng tôi nao nức, bồi
hồi trăn trở theo từng nhịp thở của
thời cuộc. Lệnh tổng động viên mới
của chính phủ ban hành theo đó thì thanh niên trong hạn
tuổi 18 phải xong năm thứ nhất đại
học, 19 tuổi phải xong năm thứ hai, hoặc là
xong năm thứ nhất ở các phân khoa Kỷ Thuật.
Nếu không đạt được tiêu chuẩn yêu
cầu của Nha Ðộng Viên Bộ Quốc Phòng đề
ra ..thì các chàng trai hãy bắt đầu nghêu ngao hát:
…”Anh sẽ ra đi về miền cát nóng,
Nơi có quê hương mịt mờ khói súng …
Anh sẽ ra đi về miền mênh mông
Cơn gió cao nguyên từng đêm lạnh lùng …”
bài
hát “Trả lại em yêu” của nhạc sĩ Phạm Duy và
chuẩn bị bàn giao “Ðào” cho người khác là
vừa ..
Các phân khoa đại
học “trai thiếu, gái thừa”. Gần hết những
thanh niên thuộc dạng bình thường trông được
trai đều xếp bút nghiên theo nghiệp binh đao, lên
đường tòng quân nhập ngủ, chỉ còn lại
thành phần thanh niên được hoãn dịch vì lý do gia
cảnh (con trai duy nhất trong gia đình có cha mẹ gìa
trên 60 tuổi) hay bị tật nguyền …
Quân trường Võ Bị
Thủ Ðức chật nức, không còn đủ chỗ
chứa nữa. Tổng Cục Huân Huấn mượn
đỡ trường Ðồng-Ðế Nha Trang
(Trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế) để
huấn luyện sĩ quan. (Có 12,000 SVSQ Trừ Bị
tốt nghiệp trường Ðồng Ðế-NhaTrang và
một số các SVSQ Không Quân, Hải Quân thụ huấn
quân sự tại đây)
Tiểu Ðoàn của chúng tôi
được chỉ định đi đến
trường Ðồng Ðế-Nha Trang.
Trường Ðồng
Ðế-Nha Trang
Chúng tôi được
cấp phát cho mỗi đứa một ổ bánh mì dài
độ 1’-0” và 2 hộp cá mòi Sumaco để chuẩn bị
lên đường. Ðứa nào cũng hứng đầy bi
đông nước và khệ nệ đeo trên vai ba lô, tay
sách sacmaren (sách tay) nặng trĩu.
Sau khi được các sĩ
quan cán bộ từ quân trường Ðồng Ðế dặn
dò mọi chi tiết, chúng tôi bước lên những
chiếc xe GMC đậu chờ sẵn. Ðoàn xe lăn bánh
rời khỏi TTHL Quang Trung vào khoảng 9 giờ sáng hôm
đó theo ngả xa lộ Ðại Hàn, ra xa lộ Biên Hòa
rồi trực chỉ Quốc lộ 1. Có lính vỏ trang
theo hộ tống và tôi nhìn thấy phi cơ L-19 thỉnh
thoảng xuất hiện bay quần trên bầu trời
để bảo vệ an ninh.
Ðoàn xe đi xuyên qua các
tỉnh Phan Thiết, tôi ngửi được mùi
nước mắm thơm phức từ những vựa nước
mắn nằm dọc theo hai bên quốc lộ; rồi
đi qua địa phận các tỉnh Phan Rang, Phan Rí,
nắng như lửa đốt. Ðoàn xe đi chậm
lại khi đi ngang xuyên qua phố xá. Nhìn những
người dân địa phương đang đi bộ
trên đường bị ảnh hưởng khí hậu
khắc nghiệt, người nào mặt mày cũng hóc hác,
da đen thui đen thủi, tóc le hoe ..
Quốc lộ 1 có một
khoảng đi cặp sát theo bờ biển, một bên là
núi đá. Gió biển thổi vào mát rượi, có lẫn
mùi muối hăn hắc ..
Ðoàn xe dừng lại ở một khoảng quốc lộ
cạnh bờ biển, chúng tôi được phép rời
xe 15’ để..”xã nước” và vương vai hít thở
vài cái cho thoải mái, xong lên xe tiếp tục cuộc hành
trình.
Gần xế chiều, chúng tôi
đến điạ phận Cam Ranh có bải cát trắng
tinh bao bọc những hàng dừa xanh lả lơi thơ
mộng. Tôi mải mê nhìn ngắm những vẻ
đẹp thiên nhiên của trời đất miền thùy
dương mà đã nhiều lần nghe nói đến,
nhưng giờ mới được diện kiến. Xe
đi khoảng hơn một giờ sau thì vào đến
thành phố biển Nha Trang. Ðoàn xe vẫn đi trên Quốc
lộ 1, xuyên qua phố xá một đoạn, qua cầu Xóm
Bóng độ hơn nửa giờ thì dừng lại
ở trại Tiếp Nhận trường Ðồng
Ðế-Nha Trang, nằm dưới chân đèo Rù Rì.
Ở Trại Tiếp nhận 3
tuần lễ, chờ sắp xếp để đưa
sang quân trường Ðồng Ðế. Trại Tiếp
Nhận trường Ðồng Ðế không lớn bằng
trại Tiếp Nhận quân trường Quang Trung. Chỉ
có 6 cái barrack nằm song song, mỗi bên 3 cái. Ở giữa
là sân rộng, có một nhà tiền chế cho toán kiểm
sóat cổng ra vào trại. Cuối sân là dẫy nhà dùng làm
văn phòng cho cán bộ phụ trách. Trại Tiếp
Nhận nằm trơ trọi dưới chân đồi,
không một bóng cây. Ban ngày, nắng rọi vào mái tôn, nóng
hừng hực như lửa đốt, chúng tôi phải ra
đứng bên hiên nhà đế tìm chút gió thoảng.
Cán bộ trại cắt
cử cho chúng tôi làm tạp dịch chung quanh doanh trại.
Tối lại thì tập họp, tất cả ngồi
bẹp xuống mặt đất cát, sỏi để nghe
các cán bộ hướng dẫn nầy nọ và thỉnh
thoảng coi văn nghệ “tài tử” tự nguyện
của các Khóa Sinh chúng tôi hát cho nhau nghe đỡ buồn.
Khoá Sinh không được phép
rời khỏi khu vực trại Tiếp Nhận. Mỗi
ngày có xe kéo bồn chứa nước đến vào
buối sáng. Khoảng hơn 11 giờ sáng và 5 giờ
chiều mỗi ngày, xe nhà Bàn chở thức ăn
đến. Ăn cơm với cá biển kho, mùi cá tanh không
chịu nỗi. Lính “công tử” nào nuốt không vô thì đã
có các ông cán bộ và lính phục vụ nhà Bàn có mang theo
thức ăn “khá hơn” để bán lấy tiền.
Trời trưa nắng gắt, các ông cũng ngụy trang
kín đáo mang đến cà phê đá, trà đá, lén lút bán cho
các Khóa Sinh. Ðứa nào muốn mua gì gì khác, có thể nhờ
các ông cán bộ nhà Bàn làm trung gian mua dùm, tính giá “văn
nghệ” thôi.
Hằng ngày, kẻng đánh báo
thức 6 giờ sáng, thức dậy ra sân tập thể
dục, xong đánh răng rửa mặt, chia công tác, dùng
cái rà-mèn đựng cơm ăn “chà láng” giao thông hào chung
quanh trại. Nếu không có thêm công tác gì thì ngồi tán dóc,
kể chuyện trời trăng mây nước, hoặc
đọc sách, viết thư trong lúc chờ xe nhà Bàn
đến lảnh cơm ăn.
Hơn một tuần lễ, sau
khi đi công tác trở về quân trường Quang Trung, anh
em phóng thư đi, giờ đã có thư lại. Thư
từ Quang Trung được chuyển ra ngày nào cũng
đầy ấp cả bao “chỉ xanh” loại
lớn. Khoái nhất là mỗi ngày ngồi chờ cho ông
Bưu tín viên (Mail man) của trại vác cái bao to tổ
bố đứng giữa sân đọc tên. Chờ cho ông
ta đọc trúng cái tên cúng cơm của mình, ra lảnh
thư, hối hả mở ra xem. Có anh thì ra giao thông hào,
ngồi trầm ngâm đọc thư, có anh nằm xấp
trên giường ngủ đọc thư, có anh ngồi
dựa lưng vào vách hè barrack đọc thư …
Tôi nhận được vài lá
thư từ Sàigòn gởi ra, mừng và cảm thấy
được an ủi vô cùng giữa khung cảnh
đồi núi sỏi đá nắng cháy da. Những dòng
chữ thắm đượm nồng nàng tình cảm chan
chứa của người hậu phương đã cho
tôi có được những giây phút lâng lâng hạnh phúc
hồi tưởng nhớ lại mấy tháng đi
chiến dịch..
Chuẩn bị sang quân
trường Ðồng Ðế.
Ðoàn xe chở chúng tôi đi độ hơn nửa giờ,
thì đến cổng quân trường Ðồng Ðế. Quân
Trường Ðồng Ðế tọa lạc sát cạnh
bờ biển .Ngồi trên xe, tôi nhìn thấy khoảng
trống mênh mông trời nước phía trước
mặt ở cuối con đường .
Ðoàn xe đi qua cổng gát, rồi dừng lại một
bên sân Vũ Ðình Trường. Cả đám Sinh Viên Sĩ
Quan khóa đàn anh đang ngồi chờ, chào đón. Chúng tôi
vai mang ba lô, tay xách sacramen nhảy xuống xe là đã nghe
tiếng hò hét, quát tháo của cán bộ quân trường ra
lệnh cho đám “Lính mới” dậm chân tại chổ,
miệng đếm nhịp 1, 2, 3, 4 …1,2,3,4. Khi hàng vạn
cái chân đã nhịp nhàng ăn khớp với nhau, chúng tôi
bắt đầu chạy quanh Vũ Ðình Trường chào
sân. Sau mấy tháng đi chiến dịch “ăn hút” phây
phả, anh em đã tạm quên “mùi” quân trường, cho nên
mới chạy hết 3 vòng, đã có vài “chiến sĩ”
ngả gục...và lác đác kéo dài qua đến vòng thứ
4. Sang vòng thứ 5, chỉ còn lại phân nửa đang
chạy mà tôi có cảm tưởng như đang.. đi
bộ! Tôi cũng rán cầm cự kéo dài qua được
vòng thứ 5 thì..bắt đầu thấy sao trời
chớp nhá, cổ họng tôi khô như có lửa cháy; tôi rán
bước thêm vài bước nữa trước khi
“gục ngả” nằm dài. Cán bộ quân trường
nắm áo tôi kéo đứng dậy, bảo chạy
tiếp, tôi lắc đầu, ra dấu tôi đã…hết
“xíu quách”, chớ tôi nói không ra lời. Mặc cho cán bộ
hò hét, tôi quị người xuống chiếc
“giường đất” êm ái, để cho tới đâu
thì tới, chớ tôi không còn bước nỗi nữa.
Biết tôi “làm thật” chớ không phải làm giả, cho
nên cán bộ quân trường “thông cảm” cho tôi nằm
luôn tại chổ giống như bao nhiêu chiến
sĩ khác...Tôi nghĩ anh nào mà còn ngoan cố dấu
“hột xoài hột mít” dưới háng hay cà phê sửa mang
theo từ Quang Trung ra Ðồng Ðế, có lẽ
cũng..văng hột, xịt sửa ra ngoài, khỏi
cần chờ ban Quân Y quân trường trao quà tặng 100
đến 500 ngàn đồng, tiền thưởng cho
“chiến sĩ xuất sắc”!
Sau một lúc nằm dài thẳng cẳng, các chiến
sĩ mới lác đác cục cựa mò cái bi đông
tìm nước uống. Cán bộ quân trường ngồi
..rình, vừa thấy chúng tôi tay chân “mó máy”, bảo
đứng dậy chạy tiếp. Vòng chạy đợt
nhì nầy gây cấn hơn lần đầu. Cán bộ
hướng dẫn hò hét dữ tợn hơn, vừa
chạy theo sau lưng đếm nhịp, vừa
đẩy người tôi đi tới. Tôi đi gần
được một vòng thì thấy “ngàn sao”..và hết
biết gì chung quanh nữa…
Màn ra mắt Quân Trường chỉ có vài tiếng
đồng hồ thôi, một số anh em chúng tôi ê ẩm
cả long thể.
Ba tuần lể huấn nhục bắt đầu sau 2
tuần chúng tôi đến quân trường Ðồng Ðế.
Trong 3 tuần nầy, chúng tôi phải chịu nép mình
chấp hành những qui luật của quân trường,
thi hành những hình phạt, biểu gì làm nấy, bảo
sao làm vậy.., phải thi hành, không được phản
đối cũng như có ý kiến. Phải chịu
đựng những kham khổ. Chúng tôi được
cắt cử làm những công tác mà tay chân phải
đụng chạm với bùn sình, chất thải dơ
bẩn, không được phép thay quần áo, tắm
rửa, để nguyên áo quần dơ và mang giầy vớ
dơ ngủ một đôi ngày. Chân nhớt nhợt vì
chất bẩn tồn động trong đôi vớ
thối, nơi các ngỏ ngách thoát mồ hôi, chổ
tiếp giáp của thân thể với tứ chi không
được vệ sinh nên ”lên men”..cũng nhớt
nhợt, phát ra mùi khó ngửi và ngứa ngái khó chịu vô
kể. Chúng tôi không được nhân thư từ, không
gặp gở, tiếp xúc với ai, ngoài những
người bạn đồng ngủ và sĩ quan Ðại
Ðội Trưởng Khóa sinh. Không được đi
đến Câu Lạc Bộ, không hút thuốc lá …
Một số khoá sinh không chịu đựng nỗi gia
đoạn huấn nhục đã bỏ cuộc nửa
chừng, hoặc vì quá bức xức, quá sức chịu đựng
của mình nên nổi khùng không kềm chế
được mình, gây nên những hành động đáng
tiếc ..
Hết 3 tuần lễ huấn nhục là một cuộc
di hành từ trường lên đến đỉnh núi
Ðồng Ðế có cái tượng “thằng Cù Lần” trên chót
vót.
Không biết 2 câu thơ:
“Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh”
Do
ai là tác giả? Và đã có từ lúc nào để diển
tả khung cảnh bức tượng cao khoảng 25m,
đúc bằng ciment, sơn màu trắng, đứng ở
thế “nghỉ” của nhà binh đặt trên đỉnh
núi; bên
dưới
chân của bức tượng là đường nóc
của những dãy núi thấp. Ðứng phía xa xa từ
hướng thành phố Nha Trang, nhìn giống như
những đường nét của một người
phụ nữ, đang ở thế nằm nghiêng, tóc xõa
dài.. đợi chờ ..
Vượt qua được ngọn núi cao để
đến đỉnh đồi, rồi đi trở
xuống lại chân núi, cũng phải đổ nhiều
mồ hôi vì vai mang ba lô, đầu đội nón sắt cùng
súng ống, đạn dược nặng nề.
Từ sáng sớm, các Khóa Sinh rời trại, di quân theo hàng
dọc đường ra Ba Làng đến Bải Tiên vòng
theo chân núi, một bên là vách đá, một bên là bờ
biển. Buổi sáng sớm, thủy triều xuống
thấp, bải cát dài, rộng, có lẫn đá lớn
nhỏ lỏm chỏm. Ði khoảng 3 km, rẽ sang con
đường mòn, đi leo lên những triền dốc.
Có lúc gặp con dốc hơi thẳng đứng, Khoá Sinh
phải rán khom lưng, hoặc bò, hay dùng đủ
phương cách để vượt qua. Ì ạch theo chân
các bạn mình, đến xế trưa, tôi cũng
được “ôm chân” thằng Cù Lần. Một sĩ quan
cán bộ ngồi sẵn ở dưới chân bức
tượng ghi tên, ghi danh số để biết
người nào đã đến nơi, người nào còn
“chém vè” ở lưng chừng núi.
Trên đường xuống núi thì đỡ vất vả
hơn lúc leo lên. Cứ đổ dốc mà..chạy! Có lúc
dùng bàn tọa ngồi cho trượt xuống núi, và
biết chắc là về barrack sẽ ..bỏ cái quần!
Xế chiều, tất cả các Khóa Sinh tập hợp
đầy đủ dưới chân núi. Sau khi sĩ quan cán
bộ kiểm điểm xem còn em nào ở nán lại
để tâm sự với thằng Cù Lần không? Ðầy
đủ quân số rồi, chúng tôi trở về trại
lúc trời nhá nhem tối.
Anh em được tắm một bữa thả dàn,
để chuẩn bị sáng hôm sau mặc quần áo
sạch sẽ, nguyên bộ vãi kaki mầu vàng nâu, có thắc
cravat, đầu đội mũ lưỡi trai, dự
lễ gắn Alpha, chánh thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan.
Sau buổi lễ gắn Alpha, chúng tôi được đi
phép và phải trở lại quân trường lúc 6
giờ chiều cùng ngày .
Khu Tiếp Tân tọa lạc kế bên bờ biển,
nằm một bên, phía trước cổng chính của quân
trường Ðồng Ðế đông nghẹt thân nhân của
các SVSQ đến thăm. Tôi thì..ra Nha Trang không có thì giờ
đi dạo phố phường, chưa quen cô nào hết
và gia đình lại ở xa nên..không có ai đến
thăm!
Tôi thả bộ đi vòng vòng khu Tiếp Tân, nhìn thiên
hạ lao xao một lúc rồi tấp vô ngồi nơi
mấy cái quán cốc che tạm bằng những miếng
vải nylon do vợ con của các nhân viên cơ hữu
đang phục vụ trong quân trường bài bán thức
ăn uống làm một bụng cho đả thèm, xong tôi la
cà xuống những quán cốc khác bán dừa tươi
dọc theo bải cát, chọn cho mình được
một chiếc ghế bố, ở một vị trí mát
mẻ, tôi ngồi nhìn ra khơi trời nước bao la,
nghe sóng vỗ rì rào, gió vi vu nhăm nhi nước dừa
ngọt, mát rượi. ./.
Minh Vũ
Chú
thích : Người viết chỉ nhớ man mán tới
đâu viết ra tới đó. Quí vị cựu SVSQ
Ðồng Ðế nào còn nhớ chi tiết nào bổ túc thêm cho
để anh em cùng chia sẻ những ngày mới vừa
“Xếp áo thư sinh từ giả kinh kỳ”.
Ða tạ
No comments:
Post a Comment