1.Lời mở đầu
Thành công trước hết của VNCH cần phải kể có lẽ là nỗ lực đón nhận gần 1
triệu đồng bào miền Bắc di cư sau Hiệp định Geneva 1954 ghi nhận thì dễ
dàng, nhưng ngay cả với một cường quốc như Hoa Kỳ ngày nay, việc tái
định cư, ổn định đời sống về mọi mặt (nhà ở, công ăn việc làm, y tế,
giáo dục…) cho cả triệu dân là một thách thức ghê gớm và thời điểm đó
Chánh phủ Ngô Đình Diệm có công lớn trong sứ mạng này, có lẽ không gì
ngạc nhiên khi nhiều gia đình người Bắc di cư đến nay vẫn dành nhiều ưu
ái cho vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa, có một sự thật
người ta nhận xét người Việt ở miền Nam thường hào sảng và… hào hoa và
đặc điểm này dường như cũng đúng với chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Mặc dù trong khung cảnh chiến tranh điêu linh, miền Nam Việt Nam vẫn
kịp khai triển một nền văn hoá nghệ thuật độc đáo, đậm chất Việt, cách
riêng trong các ngành văn chương, âm nhạc, hội hoạ… Có hai lý do lớn góp
phần thúc đẩy sự viên mãn này: công việc giáo dục nhân bản, và một nền
báo chí tự do. Cả miền Nam thời đó có khoảng 50 tờ nhật báo và hằng trăm
tạp chí lớn nhỏ đủ loại, tạo sân chơi cho nhiều tài năng trẻ mặc sức
tung hoành.
Chính trong môi trường này, dưới thời VNCH rất nhiều tác phẩm quý đã
ra đời, vẫn còn chỗ đứng đến ngày nay. Có hằng trăm, thậm hằng ngàn tên
tuổi thành danh vào lúc tuổi đời chỉ ngoài đôi mươi, điều sau này hiếm
gặp lại, sự có mặt của người Mỹ và các nước bạn đồng minh, cùng nhu cầu
chiến cuộc, giúp VNCH có một mạng lưới đường xá, cầu cống, và các công
trình kiến trúc khang trang, rộng khắp xứ sở. Hệ thống hạ tầng cơ sở này
hầu như còn nguyên trạng, trở thành trục xương sống của nền kinh tế
Việt Nam kéo dài đến sau này
2..Chương II
Cho tới khoảng đầu thập niên 1990 kinh tế nước Việt Nam thời hậu chiến
rập khuôn mô hình Nga Sô cũ, khiến đời sống dân chúng cơ cực bần hàn,
dẫn đến quyết định “cải tổ”, “mở cửa”, và thu hút “đầu tư” năm 1986.
Nhìn lại, các nhà hoạch định kinh tế của VNCH đã đi trước đó đến 30 năm.
Từ 1957, chánh phủ VNCH đã ban hành nhiều chánh sách mạnh mẽ, kêu gọi
đầu tư ngoại quốc lẫn tư nhân, giúp canh tân mở mang nước nhà.
Chính nhờ những quyết sách nhạy bén này, trong 20 năm kế tiếp, miền
Nam Việt Nam trong thế vô vàn khó khăn, vẫn nỗ lực xiển dương một nền
công nghệ riêng tuy quy mô còn khiêm tốn. Ta có thể nhắc những cái tên
lừng lẫy của một thời như: Khu kỹ nghệ Biên Hòa, Khu kỹ nghệ An Hòa, Khu
kỹ nghệ Phong Đình, nhà máy giấy Cogido An Hảo, các xưởng dệt Vinatexco
và Vimytex, nhà máy thủy tinh Khánh Hội, hai nhà máy xi măng Hà Tiên và
Thủ Đức… VNCH cũng kịp xây đập thủy điện Đa Nhim từ đầu thập niên 1960,
là một trong những lý do giúp phát triển mạng lưới điện lên ít nhất 10
lần. Kỹ nghệ dầu hoả cũng manh nha đầu thập niên 1970 với hãng Mobil của
Mỹ chuẩn bị khai thác dầu tại giàn khoan Bạch Hổ ngoài khơi Vũng Tàu.
Một thành quả khá độc đáo khác, thường được nhiều người nhắc nhở, là
sản phẩm xe hơi “La Dalat”. Khởi thuỷ là một cơ xưởng của Citroen mở từ
năm 1936. Đến đầu thập niên 1970, hãng này gọi là “Citroen Xe Hơi Công
Ty”, đóng nhiều phiên bản xe La Dalat khác nhau, mở cửa hoạt động đến
năm 1975. Ngày nay, vẫn có nhiều người chơi xe cổ sưu tập các xe La
Dalat này, đặc biệt ở Sài Gòn.
Chiếc xe tí hon, đơn giản, song ít nhiều gợi niềm hoài cảm, và hãnh
diện cho người miền Nam một thuở, đã bước vào kỹ nghệ đóng xe hơi từ rất
sớm, một điểm son đặc biệt thời VNCH là chương trình “Người Cày Có
Ruộng” khởi sự năm 1970. Đây là tương phản lớn với cuộc “cải cách ruộng
đất” đẫm máu ở miền Bắc với chánh sách cộng sản. Ở miền Nam Việt Nam,
chánh phủ VNCH nghĩ ra cách bán công khố phiếu, lấy tiền đó mua lại
ruộng đất của điền chủ, rồi đem chia cho nông dân miễn phí. Chương trình
này giúp khoảng bốn triệu nông dân có đất ruộng riêng, đời sống được
cải thiện đáng kể. Nhiều học giả sau này đánh giá “Người Cày Có Ruộng”
là một trong những chương trình cải cách điền địa quy mô, mang nhiều
tham vọng, và thực thi hiệu quả nhất tại một quốc gia thuộc thế giới thứ
ba.
=> Tổng kết
Trong những thành tựu này, có thể nói, không gì sánh bằng nền giáo dục
VNCH. Tuy non trẻ, ảnh hưởng của nó còn kéo dài, vị ngọt của nó còn thấm
đẫm theo nhiều thế hệ người Việt ở hải ngoại lẫn quốc nội sau này. VNCH
là một trong những quốc gia đưa giáo dục vào chính hiến pháp, bảo đảm
công dân được học hành miễn phí, và nền đại học không bị chi phối bởi
chánh trị. Giáo dục thời VNCH chú trọng các yếu tố nhân bản, dân tộc, và
khai phóng, có thể kể vài con số ước lượng sơ khởi vào đầu thập niên
1970. VNCH có 2.5 triệu học trò tiểu học, trên nửa triệu học trò trung
học, và hơn 100 ngàn sinh viên đại học.
Trên cả nước, số người biết đọc / viết chiếm khoảng 70% dân số. Ngành
giáo dục VNCH có đến 3 máy chấm bài thi trắc nghiệm điện tử IBM thế hệ
đầu của Mỹ. Lúc đó Singapore mới có 1 máy, và ở VN hơn ba mươi năm sau
mới biết sử dụng trở lại …VNCH có hệ thống trường học cả công lẫn tư rất
mạnh, ở mọi cấp học. Nhiều trường còn lưu danh đến ngày nay như: Viện
Đại học Sài Gòn, Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Vạn
Hạnh, Viện Đại học Minh Đức, Học viện Quốc gia Hành chánh, trường Quốc
gia Âm nhạc, trung học Pétrus Ký, Chu Văn An, Gia Long, Quốc Học (Huế),
Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Lasan Taberd, Regina Pacis, Regina Mundi,
Bác ái, v.v…
Tuy chỉ hiện diện trong khoảng 20 năm ngắn ngủi nhưng Việt Nam Cộng
Hoà cũng kịp ghi lại nhiều dấu ấn. Các chánh phủ VNCH, ở thời đệ Nhất và
đệ Nhị Cộng hoà, dù đối diện vô vàn thách thức, dù phải đương đầu với
võ lực xâm lăng của chủ nghĩa cộng sản từ phương bắc, vẫn đủ sức điều
hành một xứ sở với gần 20 triệu người một cách hiệu quả trong chừng mực
có thể. Với các thành tựu điểm qua trong bài này, ở những lãnh vực kỹ
nghệ, giáo dục, văn hoá… VNCH đóng góp một cái nền, một cái khung chắc
chắn.
Sự ảnh hưởng của nó lên cách tổ chức, ý thức, và đời sống người Việt
về sau này sẽ cần thêm thời gian để người ta nhận biết rõ. Thời VNCH
cũng tạo ra một lớp người mới, có tri thức, chánh trực, hết lòng phụng
sự quốc gia. Chỉ tiếc rằng sau một cơn biến động, đa phần trong số họ
không có cơ hội giúp phục hưng xứ sở, thậm chí còn phải hứng chịu nhiều
sự trả thù ác hiểm.
Thế cho nên, dù đã thôi tồn tại hơn 36 năm rồi, nhưng cho tới ngày
hôm nay VNCH vẫn còn được nhiều người nhắc nhở, nửa như niềm hãnh diện
chưa phôi phai, nửa như nỗi lưu luyến dịu dàng, về một thời thanh xuân
cũ, về cái buổi ban đầu trẻ trung nhiều hứa hẹn… Và có lẽ, từ nỗi nhớ
nhung nhẹ nhàng này của nhiều người Việt, sẽ bật ra những tia hy vọng,
hướng về một tương lai khác hơn, về sự phục sinh của các giá trị đẹp, và
sự rõ ràng sòng phẳng với nhiều sự thật lịch sử còn ẩn khuất.
Blog Saigon Xưa
No comments:
Post a Comment