Thursday, June 7, 2018

Một thoáng Sài Gòn Đẹp Lắm từ 1930 - 1973 - Blog Sài gòn Xưa


Người Sài Gòn không thể nào quên được câu hát… Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi… của Y Vân ngày nào. Trong suốt thời niên thiếu, Sài Gòn đối với tôi là một thành phố tuy xa lạ nhưng lại đầy cuốn hút. Tôi chỉ biết đến Sài Gòn qua những chuyến nghỉ hè kéo dài độ 1 hoặc 2 tháng. Tuy nhiên, năm nào cũng vậy, các chuyến nghỉ hè tại Sài Gòn là cả một khám phá lớn, hứa hẹn những ngày hè sôi động đối với một thiếu niên chỉ sống tại Đà Lạt và Ban Mê Thuột.
Bước sang thời quân ngũ tôi đã trở thành cư dân thường trực của Sài Gòn và đây cũng là một cơ hội để tôi khám phá từ những con đường nổi tiếng cho đến những con hẻm không tên trên đất Sài Gòn. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là việc đi sâu vào nếp sống văn hóa-tinh thần của người Sài Gòn, từ ăn-chơi cho đến lối sống, cách suy nghĩ và rất nhiều khía cạnh khác nữa trong tâm hồn người Sài Gòn.
Tại Sài Gòn, gia đình tôi có người thân là Bác Chánh, ông anh ruột của bố tôi. Hồi còn ở ngoài Bắc, nghe nói bác Nguyễn Ngọc Giác làm chức chánh tổng trong làng nên mới gọi là Bác Chánh. Bác có 4 người con (2 trai, 2 gái). Người con cả tên Toan, ở lại miền Bắc khi gia đình bác vào Nam. Đây là chuyến vào Nam thứ hai trong đời bác vì khoảng thập niên 30 bác đã vào theo diện phu đồn điền cho Pháp.
Sau khi di cư vào Nam năm 1954, bác Chánh mua một căn nhà nhỏ trong khu lao động Xóm Chiếu, Khánh Hội, thuộc quận 4. Xóm Chiếu vào thời đó là một bãi sình lầy. Người ta cất nhà sàn trên bãi lầy, nước thải trong nhà chảy thẳng xuống lớp sình bên dưới. Vào những trưa hè, sình lầy dưới đất bốc lên một mùi khó chịu. Vào những ngày nước triều lên cao có thể nhìn thấy nước dâng gần sát sàn nhà.
Những người ở Xóm Chiếu vốn đã quen với sinh hoạt hàng ngày nên cuộc sống vẫn cứ tiếp tục trôi, ít người để ý đến môi trường sống chung quanh. Tuy nhiên, đối với những người từ phương xa đến như tôi thì đây là một trải nghiệm khó quên khi phải tiếp xúc với một trong những xóm lao động tồi tệ nhất Sài Gòn hoa lệ.
Xóm Chiếu, Khánh Hội, là đất của phần đông những kẻ bụi đời, những tay anh chị giang hồ, những cô gái điếm, những đứa bé đánh giầy, những kẻ cờ gian bạc lận, những ‘cao thủ’ chuyên hành nghề móc túi hay… đá cá lăn dưa. Nói chung, đây là xóm lao động điển hình của Hòn ngọc Viễn Đông.
Thế nhưng, từ Khánh Hội chỉ cần vượt qua một cây cầu là mọi sự đổi khác. Sài Gòn hiện ra như một nàng tiên, ‘xiêm y lộng lẫy’. Đường Bonard, Catinat, Charner lúc nào cũng đầy ắp người và xe cộ dập dìu qua lại, như vậy, bức tranh Sài Gòn xưa hiện lên hai mảng màu sáng-tối rõ rệt. Phải chăng đây cũng là tình trạng của đa số những thành phố lớn trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á mà tôi đã từng đi qua: Manilla, Kuala Lumpur, Jakarta, Bangkok… ngoại trừ Singapore.
Nổi bật nhất Sài Gòn xưa là đường Catinat, sau đổi thành Tự Do dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Ngay vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, con đường này đã được tác giả Nguyễn Liên Phong miêu tả sinh động trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca xuất bản tại Sài Gòn năm 1906:

Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
Bực thềm lót đá sạch tinh
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều
Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều [sic] phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
… Nhà in, nhà thuốc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son [xoong]
… Phong lưu cách điệu ai bằng
Đường đi trơn láng, đền [đèn] giăng sáng lòa
Thứ năm, thứ bảy, thứ ba
Với đêm chúa nhựt hát nhà hát Tây…

Tiêu biểu cho sinh hoạt trên đường Catinat vào thời kỳ đầu Pháp thuộc là nhiều cơ sở dịch vụ thương mại được thành lập từ rất sớm. Sớm nhất là hãng Denis Frère mọc lên ở đầu đường, phía bờ sông, nay là khu vực của Grand Hotel, đối diện với Nhà hàng Majestic phía bên kia đường.
Đường Catinat, sau đổi là Tự Do và cuối cùng là Đồng Khởi
Sau Denis Frère là hiệu thuốc tây đầu tiên của cả Sài Gòn nằm ở góc Catinat và Bonard (Lê Lợi), khai trương năm 1865, chủ nhân là Lourdeau, sau làm Xã trưởng Sài Gòn (1870). Ít lâu sau, hiệu thuốc được giao lại cho Holbé, tiến sĩ dược khoa, một nhân vật khá nổi tiếng của đất Sài Gòn xưa, từng làm Phó Chủ tịch Phòng Thương mại Sài Gòn và Phó Chủ tịch Hội đồng Quản hạt Nam kỳ (Conseil colonial de la Cochinchine).
Holbé từng điều chế ra một loại biệt dược có tên “Gouttes Holbé”, loại thuốc cai nghiện dành cho những tay hút á phiện muốn giã từ ‘làng bẹp’. Về sau, nhà thuốc tây về tay Renoux, rồi Solirène và mang tên vị chủ nhân này trong một thời gian dài, trước khi bị thay thế bởi nhà hàng Givral còn hoạt động đến ngày nay…
Đề cập đến sinh hoạt của cư dân Sài Gòn trên đường Catinat, không thể không nói đến nhà hàng Continental, tuy sinh sau đẻ muộn hơn (năm 1880), nhưng bề dày lịch sử của nó thì không một cơ sở dịch vụ, thương mại nào sánh kịp. Trong khi nhà hát Tây ở cạnh đó mãi đến ngày 1/1/1900 mới được khánh thành và sinh hoạt diễn ra 4 ngày mỗi tuần thì từ đầu thập niên 1880, nhà hàng-khách sạn Continental là nơi dừng chân của các viên chức, sĩ quan cao cấp chính quốc trên đường công tác tại xứ thuộc địa. Đây cũng là chỗ tụ hội của những du khách trên đường sang Đế Thiên- Đế Thích của xứ chùa Tháp.
Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier. Người ta kể rằng chính vị công tước này là chủ nhân của Lầu Ông Hoàng ở Phan Thiết, nơi chứng kiến tình sử của thi nhân Hàn Mặc Tử và người đẹp Mộng Cầm (?).
Năm 1930, nhà hàng có chủ mới là Mathieu Franchini, người đã điều hành thành công Continental trong một thời gian dài, cho đến ngày quân đội Pháp rút về nước sau khi thất trận Điên Biên Phủ. Franchini xuất thân là dân anh chị người đảo Corse, Pháp.
Franchini trốn xuống tàu thủy làm bồi bàn và mò sang Việt Nam vào đầu thập niên 1920. Người dân thuộc địa vốn trọng Tây, dù đó là một tên vô danh tiểu tốt hoặc vô lại, nhưng đã sang đến Đông Dương vẫn được nể trọng và xem như một ông lớn.
Franchini được một Đốc phủ sứ miền Tây gả con gái và được thừa kế hàng ngàn mẫu ruộng. Chỉ vài năm sau, vợ chết, ông ta bèn bán hết điền sản để tậu khách sạn nổi tiếng Continental ở trung tâm Sài Gòn. Franchini vừa kinh doanh, vừa làm ông trùm của những tên mafia đảo Corse và thành phố cảng Marseille tại Đông Dương.
Sự nổi tiếng của Continental không xuất phát từ các chủ nhân mà từ những diễn biến lịch sử diễn ra trên đất Sài Gòn xưa. Trước thế chiến thứ hai (1939-1945), nó từng được đón tiếp hai nhân vật nổi tiếng trong thế giới văn chương là thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (giải thưởng Nobel văn chương năm 1913) và nhà văn Pháp André Malraux, tác giả của La condition humaine (Thân phận con người) xuất bản năm 1933, sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-1969).
Trong buổi “giao thời” Pháp đi, Mỹ đến, căn phòng số 214 của khách sạn Continental còn là nơi ‘ngự trị’ của Graham Greene, nhà văn người Anh đã thai nghén và cho ra đời quyển tiểu thuyết nổi tiếng The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng) ngay trong căn phòng này.
Thường thì những văn sĩ sau khi viết về một đất nước không phải là nước mình, viết về một dân tộc không phải là dân mình, thường đưa bản thảo cho người bản xứ đọc trước để tránh những chi tiết sai. Green chắc chắn không hề làm điều đó. Trong truyện ông ta viết Dakow thay vì Dakao, Tanyin thay vì Tây Ninh. Ông đặt tên cho một phụ nữ Việt trong truyện là Mei, người Việt không bao giờ có cái tên kỳ lạ đó.
Trở lại với Continental, khách sạn này đã đi vào văn chương thế giới qua The Quiet American, nhưng không chỉ có thế, cho dù như thế là đã quá đủ để tự hào. Về lĩnh vực báo chí, Continental còn tiêu biểu cho cả con đường Catinat. Cụm từ Radio Catinat hay Radio Catinat một đèn phổ biến trong giới báo chí Sài Gòn đầu thập niên 1950 xuất phát từ chính nhà hàng này. Sở dĩ có từ một đèn là vì vào những thập niên 1940-1950, hầu hết máy thu thanh còn sử dụng đèn điện tử, ai có máy 2, 3 đèn trở lên là thuộc hạng sang, máy 1 đèn thuộc về giới bình dân, vì thế Radio Catinat một đèn mang chút ý nghĩa châm biếm.
Cho đến giờ, vẫn có nhiều người không hề biết nhà hàng khách sạn Continental có một khuôn viên rất rộng phía bên trong. Chung quanh sân có những cây sứ thuộc loại ‘cổ thụ’ có đến hằng trăm năm tuổi với những mấu sẹo lồi lõm như cội mai già…
Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là Cường Để) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân người Hoa giàu có và nổi tiếng nhất nhì Sài Gòn thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (Chú Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc sư Pháp.
Cạnh khách sạn Majestic là rạp hát cùng tên, ngó mặt ra đường Catinat. Ngược lên phía trên, và những thập niên trước ngày Pháp về nước, những người thuộc lớp trước 1950 trở lên sẽ không quên hiệu bán đĩa hát Ménestrel, rạp Catinat (nằm trên một con hẻm đâm ra đường Catinat), nhà hàng Brodard, Givral, La Pagode…
Qua bên kia đường Bonard (Lê Lợi), cạnh nhà thuốc Tây Solirène (sau là nhà hàng Givral), là rạp hát Eden, tiệm sách Albert Portail, nhà thuốc Tây Pharmacie de France (sau là La Thành), nhà hàng La Pagode, cũng từng là nơi gặp gỡ của báo giới Sài Gòn.
Đi vào lịch sử của những tên đường Sài Gòn ngày xưa ta sẽ tìm được nhiều chi tiết thú vị. Chẳng hạn như nhìn bảng tên đường là có thể hình dung được từng giai đoạn lịch sử. Tên đường De Lagrandière (sau này đổi là Gia Long và kể từ 1975 là Lý Tự Trọng) chính là tên ‘hải tặc’ đã kéo pháo thuyền vào Vĩnh Long buộc kinh lược Phan Thanh Giản ký hàng ước nạp nốt ba tỉnh miền Tây năm Đinh Mão 1867. Đại lộ Charner (đường Nguyễn Huệ) cũng là tên ‘hải tặc’ đánh thành Gia Định khiến tướng Nguyễn Tri Phương bị thương năm Tân Dậu 1861!
Vào những dịp nghỉ hè, tôi thường dạo chơi đường phố Sài Gòn để nhìn cuộc sống vừa hối hả lại vừa ung dung. Hối hả đối với những người lo mưu sinh hằng ngày nhưng lại ung dung đối với những người ngồi quán café, quán nước.
Chỉ cần một ly ‘xây chừng’ hoặc ‘bạt sỉu’ là có thể ung dung ngồi nhìn thiên hạ tất tả qua lại ngay trước mắt. Cà phê bình dân thì pha bằng vợt, có khi lại gọi là cà phê ‘dớ’, chữ vớ đọc theo giọng Sài Gòn! Ở Sài Gòn hồi đó, người lớn tuổi vẫn còn giữ thói quen uống cà phê đổ ra đĩa, có lẽ vì nóng quá chăng? Có người lại còn giữ kiểu ngồi ‘nước lụt’, hai chân bỏ cả lên ghế trong quán cà phê.
… Sài Gòn thiên hình vạn trạng, từ ăn cho đến chơi, từ nghỉ ngơi cho đến làm việc. Sài Gòn trong những thập niên 60-70 là một thành phố chiến tranh với sự hiện diện rất rõ nét của quân đội. Trên đường phố, xe jeep, xe dodge, xe GMC hòa nhập cùng những dòng taxi Renault sơn hai màu và những chiếc xe nhà mang đủ các nhãn hiệu phương Tây như Simca, Citroen, Ford, Chrysler, Mercedes, Volkswagen…
Nói đến Sài Gòn không thể nào bỏ qua những chiếc xe gắn máy đã gắn bó với mọi người từ năm 1954 trong khi đó ngoài miền Bắc nhà nào có một chiếc xe đạp là cả một niềm tự hào!
Tại miền Nam, xe gắn máy thâm nhập qua nhiều giai đoạn, thế hệ xe này mối tiếp loại xe sau, hiện đại hơn và mẫu mã cũng bắt mắt hơn. Trước hết là thời của Mobylette vàng và Velo Solex. Nói chung, cả hai loại này đều có hình dáng như chiếc xe đạp đầm nhưng lớn hơn và có gắn bộ máy vận hành chạy bằng xăng pha nhớt.
Tốc độ của Mobylette có thể lên tới trên 60 km/giờ nếu còn mới. Tiện lợi ở chỗ có thể chuyển sang đạp bằng đôi chân khi bất ngờ hết xăng dọc đường. Tiện nghi ở chỗ xe có hai ‘phuộc nhún’ phía bánh trước. Còn Velo Solex thì được các bà, các cô, nhất là giới trẻ ưa thích. Chiếc xe có dáng thanh mãnh hơn Mobylette với bộ máy có cần điều khiển nằm ngay phía trước. Tuy đầu xe hơi nặng nhưng bù lại, ngồi trên Solex người phụ nữ hình như đang bay lượn theo tà áo dài trong gió!
Cuối thập niên 1950, Mobylette và Velo Solex đã phải nhường chỗ cho các loại xe của Ðức như Goebel, Puch, Sach với các tiện nghi như còi điện, ống nhún cả ở hai bánh và xe có thể chạy nhanh hay chậm bằng cách chuyển giữa 3 số. Tất cả những loại xe gắn máy này giá thường chỉ gấp ba chiếc xe đạp tốt hiệu Peugoet, Alcyon hay Dura nên giới trẻ thuộc các gia đình trung lưu đều có thể tậu được.
Cũng trong thời gian này, một loại xe gắn máy của Ý cũng được giới trẻ mê thích nhưng không mấy ai có được vì giá cao hơn các loại xe gắn máy khác. Ðó là chiếc Vespa Ý và sau đó là Vespa Pháp với giá rẻ hơn nhưng máy móc không tốt bằng của Ý. Giá một chiếc Vespa Ý khoảng 17, 18 ngàn trong khi một tô phở khoảng 5 đồng vào thời đó. Có thể nói, Vespa là sự đột phá với một bánh xe ‘sơ cua’ để đi những chuyến đường dài như ra tận Ô Cấp (Vũng Tàu).
Chiếc Vespa (tiếng Ý có nghĩa là con ong) có hai yên xe, một cho người lái và một cho người ngồi sau. Hai yên xe đó rất sát nhau nên người ngồi sau gần như kề vào lưng người ngồi trước một cách tự nhiên. Thế ngồi của các cô gái Sài Gòn trên chiếc Vespa hồi đó là hai chân để một bên, không ngồi hai chân hai bên như sau này. Chính cái thế ngồi hai chân một bên ấy đã đẩy thân hình cô gái nép sát người lái.
Còn gì thân mật và trìu mến cho bằng cảnh đôi trai gái trên xe Vespa. Để ngồi cho vững thì bàn tay mặt của cô gái phải tì lên phía sau yên người lái, hai chân cô thường vắt chéo lên nhau tạo một dáng khép nép duyên dáng đáng yêu biết mấy trong những vạt áo dài nhấp nhô theo gió.
Nếu đã thân nhau, cô gái có thể tựa hẳn vào người lái, tì hẳn cái cằm của cô lên vai trái của chàng để mà thì thầm trò chuyện với nhau trên những con đường cây dài bóng mát. Ở những đôi tình nhân này, bàn tay và cánh tay phải của cô lại tì trên đùi người yêu, để mỗi khi nếu có gì không bằng lòng cô lại véo lên đùi trừng phạt…
Vespa cũng có đối thủ, đó là Lambretta nhưng Lambretta cũng không thể lấn át được Vespa vì kiểu dáng vẫn không độc đáo bằng Vespa mà lại kềnh càng hơn.
Cuối năm 1968 là một cuộc cách mạng xe gắn máy tại Sài Gòn với sự xuất hiện của xe Honda Nhật Bản với 2 kiểu dành riêng cho nam và nữ. Nam thì có SS50, S50 và nữ thì có Honda Dame C50.
Tổng Cục Tiếp Tế, Bộ Kinh Tế, của nội các Nguyễn Cao Kỳ năm 1968 ào ạt nhập cảng xe gắn máy Honda về bán trả góp cho công chức và quân nhân. Thời gian đầu, phản ứng của dân Sài Gòn đối với Honda có phần dè dặt. Người ta còn chê “xe gì mà làm bằng mủ” vì Honda có vè và bửng làm bằng mủ cứng để xe nhẹ hơn nên dù máy cũng chỉ 49cc mà tốc độ lên tới 70, 80 km/giờ.
Chỉ sau ít tháng sau, Honda đã trở thành món hàng được giới tiêu thụ săn đón, mua đi bán lại với giá tăng vùn vụt vì thấy loại xe này tiện nghi hơn các loại gắn máy trước rất nhiều, tiếng máy nổ êm vì máy là loại ‘4 thì’.
Thêm vào đó, Honda còn có còi điện chạy bằng bình ắc quy. Tuy còi xe có hình dáng nhỏ bé nhưng kêu rất vang. Ngoài ra còn có hai cặp đèn hiệu (signal) trước và sau với hai kính chiếu hậu hai bên tay lái.
Khi vận hành lại có ba số (loại C50) hay bốn số (loại SS50). Hơn nữa xe Honda Dame C50 lại bán tự động nên rất dễ cho các bà các cô sử dụng. Ngồi trên chiếc Honda nhỏ bé nhưng người sử dụng thời đó lại có cảm tưởng như đang sử dụng xe hơi! Chỉ một năm sau các loại gắn máy của Nhật đã tràn ngập thành phố, không chỉ có Honda mà còn Suzuki, Yamaha, Bridgestone, Kawasaki.
Phong trào chơi xe gắn máy của tuổi trẻ Sài Gòn thời đó không chỉ là tháo bỏ ống hãm thanh mà còn “xoáy xy lanh” cho lòng phân khối của xe lớn hơn để đua nhau trên xa lộ Biên Hòa. Từ đó mới có danh từ ‘anh hùng xa lộ’ hay ‘yên hùng xa lộ’ để chỉ những tay đua bặm trợn, liều lĩnh phóng xe xả hết tay ga, luồn lách qua các hàng xe đang chạy, kể cả chui qua những chiếc xe be đang kéo những cây gỗ dài thượt.
Nhiều anh hùng còn ‘làm xiếc’ trên chiếc Honda như đứng thẳng trên yên xe hay nằm dọc trên chiếc xe đang chạy với tốc độ cao. Người Sài Gòn mỗi khi thấy xuất hiện những ‘anh hùng xa lộ’ này thường hốt hoảng tránh xa vì tai nạn thê thảm bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra.
… Vào thời ấy, dân số Sài Gòn chỉ mới tròm trèm ba triệu người và số xe gắn máy cũng chỉ trên 700 ngàn chiếc nên đường phố còn rộng thênh thang. Trai gái có thể chạy vòng vòng hết Bonard ra Catinat, quành ra bờ sông, ghé vào Point des Blagueurs (Nhà hàng Cột cờ Thủ Ngữ) để “uống ly chanh đường cho thấy môi em ngọt” hay ghé quán kem Hà Nội, Mai Hương để nhìn trai gái tấp nập đi lên đi xuống dọc theo con phố Bonard. Lúc ấy tuổi trẻ gọi là “đi bát phố Bô Na”.
… Thủ đô Sài Gòn ngày ấy lúc nào cũng đậm sắc màu áo lính. Từ những đại lộ chính cho đến hang cùng ngõ hẻm, ở đâu cũng thấy lính… Họ mang nhiều sắc áo, từ rằn ri cho đến bộ quân phục truyền thống của bộ binh và sau này đổi thành bộ 4 túi, áo bỏ ngoài quần.
Loại được mệnh danh là ‘lính kiểng’ như tôi hằng ngày đi đi về về giữa Trường Sinh ngữ Quân đội (TSNQĐ) và nhà trên chiếc Honda SS50, tối thỉnh thoảng vào trường ứng chiến, khi nào tình hình chiến sự căng thì cấm trại 100%.
Để chấm dứt đoạn viết về Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi… xin mượn hai câu thơ dưới đây của Bùi Giáng, một nhà thơ ‘điên’ trong khi mọi người ‘tỉnh’. Nhưng cũng có thể nhà thơ ‘Giàng Búi’ hay ‘Bùi Giáng bán dùi’ lại rất ‘tỉnh’ vào lúc mọi người đang ‘điên’ vì cuộc sống ở Sài Gòn trong thời kỳ tao loạn:

Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi,
Đi lên, đi xuống đã đời du côn

Xin hết.
Tác giả : Nguyễn Ngọc Chính (Hồi ức một đời người)

  Video

No comments:

Post a Comment