Ngày 30 tháng tư. Cả nước nghỉ mừng ngày thống nhất. Tôi thấy những tấm ‘paneaux’ lớn người ta dựng trên nóc các building ở vòng xoay ngả sáu Phù Đổng đối diện Starbucks. Một tấm “nổi bật” đập hẳn vào mắt tôi cái cảnh chiếc xe tăng Trung Cộng húc đổ cánh trái cửa cổng dinh Độc Lập. Hẳn là đâu đó ở trên khấp dải đất này, người ta đang đọc diễn văn chúc tụng ngày và những người có công thống nhất đất nước. Và cũng chắc chắn là bên kia bờ Thái Bình Dương, số người Việt lưu vong đang khóc ngày Quốc Hận. Đất nước tôi vẫn là hai nửa đối kháng kể từ hiệp định Genève năm 1954. Chỉ khác là bây giờ biên giới không còn là vĩ tuyến 17.
Hôm nay ngày 30 tháng tư tôi đi ăn phở. Chính xác hơn là đi ăn phở Tàu Bay!
Tôi
đến quán trên đường Lý Thái Tổ kế nhà thờ Nam Hà, đối diện bệnh viện
nhi đồng. Hai quán kề sát nhau cùng chung một bờ tường đều kẻ chữ:
Phở Tàu Bay. Quán sát hẻm -là vị trí nguyên thủy của phở Tàu Bay năm
xưa- với nhân viên phục vụ mặc áo vàng. Quán bên cạnh: áo xanh. Cả hai
đều ghi rõ dưới bảng hiệu: Phở Tàu Bay Chính Gốc. Hoặc Quán Cũ không chi
nhánh gì gì đó!
Như ngày xửa ngày xưa khi tôi nằm khểnh đọc Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung. Ở những chương đầu, tôi không biết phe nào: Kiếm Tông hay Khí Tông mới là đại diện cho chính phái Hoa Sơn? Giờ đây tôi cũng hoang mang chẳng rõ quán nào là quán của ông chủ có chiếc mũ phớt của lính tàu bay thời đệ nhị thế chiến?
Gần
nửa thế kỷ trước, có rất nhiều sĩ quan VNCH đã phải lựa chọn, phải
quyết định vận mệnh của mình trong đường tơ kẽ tóc để rồi hoặc ở trong
trại cải tạo hoặc ở Port Chaffee. Bây giờ đây, tôi đứng trước hai tiệm
phở Tàu Bay kề sát nhau. Cả hai đều kẻ bảng phở Tàu Bay chính gốc. Tôi
phải quyết định một lần trước khi được …ăn phở chính gốc!
Trong một tích tắc, chẳng hiểu vì lý do gì, chẳng biết là đã suy nghĩ ra sao, chỉ sau vài giây ngần ngừ, tôi bước hẳn vào quán bên phía bên tay phải.
Trong một tích tắc, chẳng hiểu vì lý do gì, chẳng biết là đã suy nghĩ ra sao, chỉ sau vài giây ngần ngừ, tôi bước hẳn vào quán bên phía bên tay phải.
Quán
hẹp và ngắn. Chỉ một hai bước sải là đến chân cầu thang dẫn lên lầu.
Khách ngồi chật tầng dưới. Tôi bước tiếp lên cầu thang và chợt gật
mình vì khuôn mặt quen quen. Chừng như một phản xạ, tôi quay người chìa
tay cho một người đàn ông áo thun trắng quần khaki vàng sậm với một bao
da ở thắt lưng: Ông có phải là ông Khang? Chính xác! Người đàn ông vui
vẻ trả lời. Khuôn mặt cởi mở bừng lên với
một nụ cười hiền lành.
Ông
Khang bắt tay tôi và có vẻ hơi ngỡ ngàng trong ánh mắt bởi tôi không có
vẻ gì là khách quen của ông hay của ba ông ngày xưa. Ít ra là bằng
cái đánh giá đầu tiên qua số tuổi.
Nhưng ông không hỏi. Ông mời tôi lên lầu vì khách đã đầy ở tầng dưới và chúc tôi ăn ngon miệng.
Tôi ăn lại tô phở Tàu Bay của gần nửa thế kỷ trước. Tô phở ngon. Thơm. Nhưng tôi ăn lại kỷ niệm nhiều hơn ăn phở. Tô phở không có giá theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Người Bắc xưa lúc di cư vào Nam chỉ ăn rau muống chứ không ăn giá!
Nhưng ông không hỏi. Ông mời tôi lên lầu vì khách đã đầy ở tầng dưới và chúc tôi ăn ngon miệng.
Tôi ăn lại tô phở Tàu Bay của gần nửa thế kỷ trước. Tô phở ngon. Thơm. Nhưng tôi ăn lại kỷ niệm nhiều hơn ăn phở. Tô phở không có giá theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Người Bắc xưa lúc di cư vào Nam chỉ ăn rau muống chứ không ăn giá!
Tôi
ngày ấy chỉ là cậu học trò nhỏ ngày ngày đạp xe ngang qua tiệm phở ngửi
mùi thơm từ tiệm bốc ra. Hiếm họa năm thì bảy lượt tôi mới có chút
tiền còm mẹ cho để đường hoàng bước hẳn vào tiệm kêu tô phở. Thành thật
mà nói, tôi không tài nào nhớ được cái hương vị của phở Tàu Bay ngày
xưa. Tôi nghĩ tôi ăn lại đúng cái hương vị cũ qua khuôn mặt của ông chủ
quán. Ông chính là nhãn hiệu cầu chứng tại
tòa của phở Tàu Bay gia truyền Saigon xưa!
Chỉ đến khi tôi mua mấy tô mang về cho mẹ và cô em gái, ông Khang mới đến ngồi nói chuyện với tôi. Tôi hỏi ông về chuyện hai tiệm Tàu Bay kề vai sát cánh với nhau. Và ông điềm đạm kể cho tôi chuyện gia đình ông. Chuyện của sự vui vầy sum họp Bắc Nam sau 21 năm chia cắt. Chuyện của những người anh em ông từ phía bên kia vĩ tuyến 17 vào Saigon. Chuyện của sự chia cắt không ở biên giới địa lý mà là ở sự cắt chia của trái tim.
Chỉ đến khi tôi mua mấy tô mang về cho mẹ và cô em gái, ông Khang mới đến ngồi nói chuyện với tôi. Tôi hỏi ông về chuyện hai tiệm Tàu Bay kề vai sát cánh với nhau. Và ông điềm đạm kể cho tôi chuyện gia đình ông. Chuyện của sự vui vầy sum họp Bắc Nam sau 21 năm chia cắt. Chuyện của những người anh em ông từ phía bên kia vĩ tuyến 17 vào Saigon. Chuyện của sự chia cắt không ở biên giới địa lý mà là ở sự cắt chia của trái tim.
Tôi cảm ơn ông vì đã chia sẻ chuyện nhà cho tôi. Và từ biệt ông.
Ông
Khang nhã nhặn bắt tay tôi từ biệt. Ông dặn hâm nước dùng riêng trước
khi đổ vào tô bánh và thịt. Ông gọi taxi trước cho tôi, và cho một
chú bé xách hai cái bọc nhựa chứa những tô mang đi ra tận taxi. Ông
chẳng nhớ tôi đâu. Làm sao ông nhớ được chú bé gần nửa thế kỷ trước chỉ
đạp xe ngang tiệm phở của ông? Ông chỉ đối xử đặc biệt với tôi vì tôi
“biết” tiệm phở của Ba ông, và giờ là của ông.
Ông
kể quán bắt đầu “lộn xộn” kể từ khi 3 người con từ miền Bắc vào nhận họ
hàng vào những năm 80. Và kết quả ông Khang là người thua cuộc.
Theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bố ông di cư vào Nam năm 54 mang theo
tiệm phở. Và ông mặc nhiên là người miền Nam, phía thua cuộc. Những
người anh em của ông từ bên kia vĩ tuyến 17 vào dành được phần nhà sát
hẻm, khiến ông trở thành người thua cuộc lần
thứ hai. Ông kể bằng cái giọng Bắc quen thuộc của những người di cư tôi
từng biết vào những năm xưa ở Bảy Hiền, ở xứ đạo Nam Hà trên đường Lê
Văn Duyệt. Giọng ông đều đều trải đời với cái nhẫn của kẻ thua cuộc.
Tôi
nhìn ông cảm khái. Có chút chạnh lòng khi nhớ lại những tháng ngày sau
75 tôi cũng bị đối xử phân biệt vì là con cái của sỹ quan VNCH.
Người Cộng Sản đối xử công bằng với những người thua cuộc không phân
biệt già trẻ lớn bé. Tôi tuy là trẻ con nhưng lại là con của phía những
người thua cuộc. Ông Khang, may mắn hơn tôi, bố ông chỉ bán phở. Nếu
không chắc cũng tàn đời trong trại cải tạo rồi.
Vậy
thì bây giờ đây tôi cho bạn biết: quán sát hẻm, áo vàng là quán của phía thắng cuộc. Thắng cuộc hai lần theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Quán còn lại dĩ nhiên là phía thua cuộc. Bạn chọn vào quán nào theo ý
thức hệ của bạn là tùy hỉ. Tôi không muốn lên gân. Chỉ là một tô phở
thôi mà. Có gì đâu bạn nhỉ?
Tôi
cũng không vơ đũa cả nắm. Đã có nhiều kẻ thắng cuộc vỗ ngực (xưng danh)
“đỉnh cao trí tuệ”. Và cũng có kẻ thắng cuộc ngồi tỉnh táo viết
sách đúc kết những đúng sai của chính mình. Cũng có một vị cảm khái
trong ngày 30 tháng tư là “cũng có triệu người buồn”.. Đã bao năm trôi
qua. Đã bao nhiêu dâu bể, bao nhiêu nướ chảy qua cầu. Cả thế giới đều
biết đến cái thông thái “đỉnh cao trí tuệ” ấy rồi.
Nói làm gì nữa thêm thừa. Bạn cứ tự đúc kết và rút ra kết luận cho
chính mình.
Tôi
đi giữa nắng Saigon ngày 30 tháng tư. Tôi thấy phố. Tôi thấy cờ. Nhưng
tôi không thấy mưa sa như người Trần Dần năm xưa. Chỉ thấy tràn căng mầu
nắng chan hòa.. Thứ nắng khỏe
mạnh của xứ nhiệt đới. Nắng. Nắng chói kinh thành. Nắng chói lọi Saigon
thành phố phương nam một thời là kinh thành của Việt Nam Cộng Hòa cũ.
Tôi
đi ngang nhà thờ Nam Hà. Và nhớ lại những ngày sau 30 tháng tư gần nửa
thế kỷ trước. Những thanh niên với băng đỏ trên cánh tay hăm hở
dồn những đống sách vun cao châm lửa đốt trong sân nhà thờ.. Lửa bốc
thành ngọn khét mùi da thuộc của những bìa sách quí. Tôi nhớ đến lửa
cháy ở kinh thành Hàm Đan 2000 năm xưa. Sách Xuân Thu nói là Hàm Đan
cháy suốt ba tháng ròng. Và các sử gia chép vào sách
những chuyện phần thư khanh nho của Tần Thủy Hoàng, người có công thống
nhất cả một đất nước Trung Hoa mênh mông rộng lớn.
Bạn đừng lo. Cứ nhìn lại 2000 năm lịch sử đi. Có triều đại nào tồn tại vĩnh viễn đâu? Chỉ tồn tại một lịch sử. Và lịch sử sẽ phán xét
hết thảy từ những chuyện ở cấp quốc gia đến tận cấp …phường! Những ai bán nước những ai thương dân. Ai là “ngụy” ai là đạo tặc.
Con cháu Việt nhiều trăm năm sau sẽ đọc sử và biết những bậc anh hùng, những kẻ lưu xú vạn niên.
ST
No comments:
Post a Comment