Saturday, January 28, 2017

Ngày Xuân bàn chuyện Uống TRÀ

          Ăn Tết xưa nay đã trở thành một ngày hội lớn nhất trong năm của nhân loại. Riêng dân tộc VN qua bao đời đã có nhiều phong tục cổ truyền rất phong phú như đưa Táo Quân về trời, dựng nêu đón xuân, cúng giao thừa, mừng Nguyên Ðán,tảo mộ, thăm hỏi, chúc tung .. nhất nhất đều hàm chứa những ý nghĩa thiêng liêng độc đáo. Trong giờ khắc năm cũ sắp tàn, mọi nhà cài then chặt cửa để sửa soạn đón năm mới trong sự xum họp đầm ấm của gia dình..Nhưng chính trong giây phút đợi nàng Xuân bước vào thềm hạnh phúc , trước bàn thờ tổ tiên thơm lừng hương khói, hoa quả, bên cạnh cội mai vàng đang ẽo lã mãn khai những cánh non, người trong cuộc trầm ngâm uống từng ngụm trà nhỏ, nghe hơi ấm thấm tận hồn, để tự ý thức đầy đủ về đời mình suốt một năm dài truân chuyên hay may mắn và quên đi sự ồn ào từ bên ngoài.
           Có điều chắc chắc rằng không phải là ngẩu nhiên mà nhiều dân tộc trên thế giới lại thích uống trà, đặc biệt nhất là người Nhật đã tôn sùng cái thi vị trên thành một thứ tôn giáo lạ lùng gọi là Trà Ðạo (Théisme) . Riêng các nước sùng Nho giáo như Trung Hoa, Ðài Loan, VN, Cao Ly.. cùng có một lịch sử và cung cách thưởng ngoạn trà gần giống nhau và rất lâu đời. Người Anh thường uống trà vào lúc 5 giờ chiều mỗi ngày. Các bậc thượng lưu trí thức, hàng phú gia quyền quý uống trà lại càng cầu kỳ và thời gian kéo dài với bốn cô thiếu nữ trẻ đẹp phục vụ, một cô nhúng chén dĩa vào nước sôi cho chén ấm, cô thứ hai cho trà vào chén, cô kế đổ nước sôi vào chén và cô cuối cùng đậy nắp rồi bưng trà tới cho chủ nhân.. chỉ việc nhẹ nhàng mở nắp, hớp một ngụm nhỏ rồi lai đặt chén xuống, trong lúc đôi mắt lim dim tựa như kẻ mộng du. Nhưng thú vị nhất có lẽ là các thiền sư, tự rửa chén ấm cũng như nấu nước pha trà và một mình độc ẩm, hay nhiều nhất cũng chỉ hai ba người, gọi là đối ẩm.. Tóm lại dù uống trà trong hoàn cảnh nào chăng nửa, thì cái tính chất cao quý của nó là làm cho thế nhân trở nên tĩnh lặng để chiêm cuộc đời.

1-LỊCH SỬ CỦA TRÀ :
          Theo truyền thuyết thì chính Vua Thần Nông khi tuần thú phương nam, vô tình uống được một thứ lá cây rơi trong nồi nước đang sôi, làm cho tinh thần phấn chấn sảng khoái nên ông gọi đó là Trà. Một huyền thoại khác kể rằng Ðức Ðạt Ma Sư Tổ của Thiền phái Thiếu Lâm Tự Trung Hoa, đã ngủ quên trong lúc tọa thiền nên tức giận tự cắt mí mắt của mình quăng xuống đất và nơi ấy mọc lên một thứ cây kỳ lạ, hái lá nấu nước uống khiến cho tâm hồn tỉnh táo, được gọi là Trà. Từ đó trà trở nên thức uống thông dụng của thiền môn.
           Gần hơn còn có câu chuyện của một người tiều phu nghèo khó sống ở miền cao tỉnh Phúc Kiến, bao nhiêu năm vẫn ôm ấp thầm thương trộm nhớ một cô gái làng bên và hằng mong có tiền để cưới nàng. Ngày nọ lên núi hái củi, anh ta phát hiện một cây trà có dáng dấp kỳ lạ, mọc trong một kẻ nuí nên vội bứng đem về nhà trồng. Hai năm sau cây trà lớn, anh vội hái vài lá có màu xanh đen, đem pha nước uống , mới ngộ ra đây là một loại trà độc đáo, nên đặt tên là “ Thiết Quan Âm “ vì loại trà này khi lên men có màu đen như sắt thép và nặng hơn những lá trà thường, cho ra thứ nước uống thuần khiết như tấm lòng vị tha bác ái của Ðức Phật Bà Quan Âm. Trà Thiết Quan Âm ra đời từ đó.
            Riêng người Nhật thì viết là Trà đã được tìm thấy bởi một danh y tinh thông dược thảo, từ niên lịch tương đương với thời Chiến Quốc của Trung Hoa (300-221 Tr TL). Nhưng đó chỉ là huyền thoại. Theo Trung Hoa sử hiện nay, thì người Tàu chánh thức biết uống trà vào thời Tam Quốc, nhưng mãi cho tới nhà Ðường, trà vẫn chưa được trồng và chế biến, thứ trà uống chỉ là loại trà mọc hoang trong rừng núi, thuần khiết vẫn đươc coi như một vị thuốc bắc để trị bệnh. Do trên trà mới lưu hành trong giới thượng lưu mà thôi, còn hạng bình dân hầu như chưa mấy ai biết tới.
            Về cách uống cũng khác biệt,giữa hai bờ đai giang và nhất là dân du mục ngoài Trường Thành thì uống trà pha sưả trâu bò, dê ngựa. Cũng căn cứ theo Ðường Sử, thì chính Trà Tiên của Trung Hoa là Lục Vũ, tự Hồng Tiệm, người đất Cảnh Lăng, tỉnh Hồ Bắc, tác giả quyển Trà Kinh là người đầu tiên khởi xuớng phong trào uống trà. Sau này qua các đời cũng có nhiều tác phẩm nghiên cứu về trà nhưng tựu trung so sánh nổi phải kể tới quyển “Tục Trà Kinh “ của của Lục tào Xán người Tô Châu, thời Khang Hy, viết với nhiều tài liệu, dẫn chứng và phẩm bình về Trà một cách xác đáng. Tại VN, luận về Trà trước kia có tác phẩm “ Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, về sau Minh Ðức Hoài Trinh và Vũ Thế Ngọc.. cũng có viết về Trà Kinh. Riêng người Nhật thì có Trà Ðạo của Okakura Kakuro.. Cũng kể từ đó nối tiếp các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh.. trà trở thành phổ quát . Nhiều khu vực sản xuất trà nổi tiếng xưa nay như Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, LãnhNam, Kinh Tương, Phúc Kiến..
           Tại Nga, truyền thống uống trà gắn liền với ấm Samovar. Ðây là loại bình lớn được thiết kế rất đẹp đẽ, chứa hơn một lít nước sôi ở độ cao. Tại Nga, thời tiết lạnh lẽo gần như quanh năm suốt tháng, nên uống trà nóng gần như là một nhu cầu cần thiết vì với người Nga thì Trà có tác dụng giữ ấm cơ thể nhất là tim. Bởi vậy trong mọi nhà tại Nga, hâu như trong chiếc bình đặc biệt Samovar luôn đầy nước trà nóng và những hộp đường viên, mọi người lúc đó quây quần bên ấm trà nóng, để những viên đường vào giữa hàm răng và thong thả nhắm nháp từng ngụm trà thơm ngát, nóng hổi, trong khi bên ngoài giá lạnh mưa rơi trùng trùng.
          Tại Morocco, Châu Phi : Theo quan niệm, tràợ ở đây có tác dụng cầm chân khách trong các dịp có cơ hội gần gũi hay quây quần bên nhau. Hầu như người Morocco thường uống một loại trà xanh thương thặng và theo tập quán , thì người con trai trong gia đình phụ trách việc pha chế trà, ngoại trừ có trường hợp đặc biệt, vợ của chủ nhà vì tình thân của bè bạn, trực tiếp mời chồng mình tự tay pha tra đãi khách. Thường thì phải có hai bình trà sẳn sàng . Pha trà bằng ba loại nước với độ sôi khác nhau và được rót trong những chén nhỏ xinh sắn, đặt trên chiếc khay bằng kim loại có chạm khắc nhiều hình ãnh rất đep. Theo nghi thức, Trà được châm đến tuần thứ ba thì chấm dứt buổi tiệc.
           Tại ANH : Theo sử liệu,thì chính Nữ Công Tước Bedford , tác giả quyển “ Năm giờ uống trà” rất được người Anh ưa thích. Bà cũng là người đã tạo ra phong trào uống trà vào buổi chiều tại xứ sương mù. Ngày nay tới nhà bất cứ một người Anh nào, đặc biệt là giới trung và thượng lưu trí thức, ai cũng phải lóe mắt trước sự khéo tay và vô cùng thẩm mỹ của các bà nội trợ , trong việc trang trí bàn uống trà với khăn phủ bàn có bình hoa tươi và bộ bình trà làm bằng bạc và sứ men Trung Hoa. Người Anh từ lâu có tập quán đãi khach loại Trà sữa hay Trà Chanh. Cũng theo sữ liệu, thì vào thế kỷ XVIII, khi Anh chiếm Hồng Kông và nhiều thành phố lớn khác tại Trung Hoa như Thiên Tân,Thượng Hải, Quảng Châu.. đã du nhập tập tính uống Trà của người Tàu về bản quốc. Hằng tháng để kịp có Trà, nhiều cuộc đua gọi là Ðua Trà, bằng thuyền buồm, chở các loại trà quý từ Trung Hoa sang Luân Ðôn rất hào hứng.
           Tại VN : Mỗi năm xuất cảng trên 10.000 tấn khắp thế giới, được trồng nhiều loại trên một diện tích 89.000 hecta tại Sơn La, Yên Bai, Lào Kai,Tuyên Quang,Thái Nguyên, Nghệ An và Lâm Ðồng.
          Tại Hoa Kỳ : Hằng năm theo thống kê, thì dân chúng xứ Cờ Hoa tiêu thụ cả chục triệu tấn trà,bằng mọi hình thức như uống nóng, lạnh, trà nguyên chất hay ướp các loại hoa, uống không hay uống chung với đường thêm mật ong, sữa,kem, chanh. Người Mỹ uống nhiều loại trà, từ thứ gọi là Decaffeinated Tea hoặc các loại trà lá, kể cả dược trà bằng lá ổi, lá hồng để trị bệnh và làm tan mỡ, gọi là Herbal Tea.
          Tại NHẬT : Việc uống trà tại Nhật đã có từ lâu đời và theo thời gian đã trở thành một triết thuyết của Thiền giới. Ðây là một hình thức huấn luyện các Trà Ðồ hướng về nẽo Thiền lý, đi tìm chân, thiện, mỹ trong thế giới tĩnh tại và tự nhiên của tâm hồn. Ngày nay Triết Lý Trà của người Nhật đã trở thành một nghi thức chính thống của một tôn giáo gọi là Trà Ðạo, hình thành từ thời kỳ Mạc Phủ Tướng Qaân ở thế kỷ thứ XV. Nơi uống trà gọi là trà thất làm bằng gổ, nằm giữa một khu vườn đầy lá hoa có các lối nhỏ trãi đá sỏi dẫn tới.Những trà đồ trước khi bước vào trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào bon chen, nhập vào sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết kể cả cái ta phiền toái đáng phiền.

2-CÁC LOẠI TRÀ :
           Cây Trà có tên khoa học là Camelia Sinencis, là một trong những thực vật thuộc Họ Theacae, lá xanh tốt quanh năm và hoa thì màu trắng. Sau năm năm, cây Trà được coi là trưởng thành và cho hoa lợi liên tiếp trong hai mưoi lăm năm hay lâu hơn nữa tuỳ theo sự chăm sóc và tưới bón của nhà nông. Thông thường cây trà có độ cao tới hàng chục thước nhưng để tiện dụng cho phu hái trà, người ta phải cắt tỉa thường xuyên để thân cây đạt độ cao tối đa từ 1-1,50m. Riêng những cây già thì cắt ngang thân để mầm non nẩy chồi mới và theo phương pháp này, trà đạt tuổi thọ hơn một thế kỷ là sự thường.
            Ðể bảo quản tốt vườn trà, thường các cây bị sâu thì phải nhổ bỏ vì trà kỵ thuốc trừ sâu rầy, cũng như không tốt đối với loại phân hoá học, mà chỉ thích ứng với loại hửu cơ hay bã đậu nành. Mùa hái trà thường vào tiết thanh minh vì thời gian này, mùa đông đã đi vắng, khắp nơi nàng xuân trở về với vạn vật trong lành, khí trời ấm áp, nắng hanh nhè nhẹ đủ cho muôn hoa ngàn lá trong đó có cây trà xanh tốt, ươm hoa nẩy lộc đầy cành . Ở Trung Hoa cũng như VN, vườn trà thường được lập trên các vùng đồi thấp, làm thành các bậc thang. Người hái trà làm việc ngay từ sáng sớm khi những giọt sương mai vừa tan theo ánh thái dương khẻ rọi. Theo qui định rất nghiêm ngặt, số lương lá trà được hái tùy theo loại, chẳng hạn như trà xanh thì ngắt hai lá, còn trà Ô Long tới ba lá to và một búp..
           Trà đem về hong ngoài trời cho héo sau đó đem ủ, sấy và biến chế làm trà sống. Ngoài ra bên Tàu còn có những vườn trà cấm được công an canh phòng cẩn mật, chuyển sản xuất trà quý cho các Hoàng Ðế đỏ tại Tử cấm Thành ở Bắc Kinh. Tại Tây Hồ, Hàng Châu nơi chuyên sản xuất trà Long Tỉnh, mùa trà kéo dài từ tháng 3-10, mỗi cây hái mỗi kỳ độ 20-30 lần và thời gian cách nhau 10 lần, mục đích hái lá trà toàn búp non. Tóm lại xưa nay, người Tàu có bốn vùng sản xuất trà khác nhau như TRÀ XANH trồng tại Giang Bắc ( phía tả ngạn sông Hoàng Hà) và Giang Nam ( vùng giữa Hoàng Hà và Dương Tử). Lĩnh Nam ( Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Ðông, Quảng Tây) có trà Ô LONG và Vùng Tây Nam (Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên.. chuyên sản xuất TRÀ ÐEN và TRÀ BÁNH có nước màu tía đỏ.
           Tổng kết các loại từ trà lá, trà búp, trà xanh, trà đen, trà bột, trà hạt,trà cám, trà mộc.. tới trà uớp hoa.. nay có tới hơn 1000 loại, nếu không phải là người sành điệu thì dễ gì phân biệt. Giống như Rượu các loại, trà ngon hay dở đều tuỳ vào cách ủ ( Oxidation) và thời gian lâu hay mau., để có hương vị và màu sắc mong muốn. Các loại trà Nhật, Long Tỉnh, Bích Loa Xuân.. là loại trà xanh ủ ngắn hạn. Loại trà ủ trung bình có Bạch Hào Ngân Châm, Bao Chủng, Ðộng Ðình, Thiết Quan Âm, Thủy Tiên, Vũ Di, Ô Long của Trung Cộng, Ô Long Ðài Loan. TRÀ ÐEN là loại trà hiện nay được các nước Âu Mỹ ứa thích, được ủ trong thời gian rất lâu.
           Thú uống trà hiện nay được phổ quát khắp thế giới và trong mọi tầng lớp, nên trồng và chế biến Trà đã trở nên một kỹ nghệ quan trọng nhất là tại các nước Á Châu như Trung Cộng, Ðài Loan, Nhật Bản, VN, Cao Ly.. Trà ngon nổi tiếng là loại trà đã phải trải qua 10 giai đoạn chế biến, gồm có Trà Bắc-Thái của VN, trà Sâm Cao Ly, Thiết Quan Âm ( Ly Sơn,Ðài Trung, Ðài Loan), Ô Long (Núi Phổ Ðà,Trung Hoa, trên một rặng núi có cao độ hơn 2100m) nhưng đặc biệt nhất là trà Vũ Di, mọc trên một rặng núi rất cao lại vô cùng hiểm trở, người thường không thể leo tới để hái nên phải cho khỉ hút thuốc phiện rồi luyện tập chúng thành những chuyên viên hái trà như người.
            Ngoài ra theo khách sành điệu cũng như các bậc thầy về trà, thì việc uống và thưởng thức trà , đều đồng tình rằng muốn đạt được tuyệt đỉnh không những phải nhờ phẩm chất mà còn phải nhờ loại nước và cách pha trà, như Nguyễn Tuân thuở sinh thời đã luận là đã phải hứng những giọt sương đọng trên lá sen làm nước pha trà. Trong bài thơ “ Văn tế kim nhân phúng lộ bàn” của Tiết Phùng, có kể chuyện vua Hán Võ Ðế thuở xưa , đã cho dựng một cột bằng đồng cao 20 trượng , trên có một tượng người bằng vàng đưa tay hứng sương dùng làm nước pha trà.
           Trong “ Vang bóng một thời” Nguyễn Tuân có giới thiệu về những chiếc ấm đất quý báu dùng để pha trà, cho tới những chén uống trà nhỏ nhắn đủ loại mà khách sành điệu gọi là chén tống, chén quân.. Về ấm trà thì hơn trăm năm về trước trên đất Bắc, đã phát sinh lời truyền tụng “ thứ nhất Thế Ðức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Tất cả các loại trên đều là ấm Tàu, cũng giống nhu ấm Nghi Hưng nổi tiếng từ lâu đời. Nghi Hưng là một huyện kế cận thành phố Thượng Hải, thuộc tỉnh Giang Tô, tại đây có một loại đất sét đặc biệt , chứa nhiều thạch anh, mica, sắt.., dùng để nung các ấm trà không tráng men, gọi chung là ấm tử sa ( Unglazed-Purple sand), thường có ba màu : tía đỏ, vàng sậm và nâu đen. Ngoài ra ở đây còn có loại đất sét khác màu trắng và màu xanh nước biển rất hiếm hoi. Theo sách Trà Kinh của Lục Vũ, thì ấm Nghi Hưng hay Tử Sa là những tuyệt tác phẩm nghệ thuật của Trung Hoa với đủ loại kiểu cách, dung lượng dùng để độc ẩm, song ẩm hay quần ẩm, chứng tỏ sự khéo tay và óc sáng tạo độc đáo của các nghệ nhân nghệ sĩ.

3-NỀN VĂN HÓA UỐNG TRÀ :
           Uống trà là một nghệ thuật có tính cách văn hoá và xã hội. Thời gian uống trà cũng là một thái độ tĩnh tâm và tu luyên, giúp cho cuộc sống thêm thư giản và quên bớt phiền nảo, bon chen, cho nên xưa nay đã trở thành những nghi thức hay tôn giáo gần như khắp thế giới.
 - ÐẤU TRÀ : Theo Thái Vĩnh Chương, một chuyên gia nổi tiếng về trà của Ðài Loan, thì môn đấu trà của người Tàu, bắt đầu từ đời nhà Tống, sau đó bành trường sang Nhật Bổn thành môn Ðoán Trà. Ðây không phải là cuộc thi đấu võ thuật, thuần tuý chỉ có đấm đánh mà thôi, trái lại Ðấu Trà là một cuộc thi đòi hỏi thí sinh phải có thực tài và sự hiểu biết cao thâm chẳng những về trà, mà còn phải tinh thông đủ tính, y,lý, đạo làm người khiêm thụ ích mản chiêu tốn, tức là người khiêm tốn luôn thu được lợi ích còn kẻ tự mãn chỉ chuốc lấy tổn hại. Tóm lại đấu trà tại Trung Hoa với tất cả các loại trà, còn đoán trà ở Nhật Bản chỉ với trà xanh mà thôi.
           Nước Tàu khi xuân về Tết đến, tiết trời ấm áp êm dịu, làm cho những đồi chè cây bắt đầu trổ lá non mơn mởn, cũng là lúc khắp nơi người ta nô nức mở hội đấu trà. Có hai cách thi đấu, thứ nhất là thi pha trà và thứ hai là thi nhận loại trà . Nói chung thì thi loại nào chăng nửa, thí sinh phải đạt tới mức thượng thừa về trà, mới mong chiếm giải. Trong cuộc thi, trước hết Ban giám khảo đưa cho thí sinh xem trươc năm mẫu trà. Sau đó bí mật pha chế thành nhiều chén trà để các thí sinh nhắm và đấu với nhau, cũng như bình phẩm để phân loại trà theo các hạng tùng, trúc, mai, lan, cúc. Tuy nhiên điểm then chốt của cuộc thi vẫn là miêu tả trà qua hương sắc, mùi vị, từ đó cho biết độ lên men, cách sao tẳm, lá chè già non và xuất xứ của trà. Thời xưa trong các cuộc đấu trà, còn có phần ngâm thơ, phổ nhạc. Hiện nay tại nước này còn lưu trữ một bài thơ truyền khẩu về “ Ẩm Trà “ :, đại khái như sau :” một chén trơn môi trơn cổ, hai chén hết nổi cô buồn, ba chén tuy cạn nguồn thi hứng nhưng vẫn còn ngàn vạn quyển, bốn chén vả mồ hôi nhẹ, bình sinh mà không bình sự, năm chén gân chén thanh sạch, sáu chén thông đạt diệu linh, bảy chén như bổng như bay..” Những điều trên cho thấy cổ nhân nghiện và thích thú trà đến mức nào.
- THI PHA TRÀ : Yip-Wai-Man hiện được người Hồng Kông tôn xưng như là một bậc thầy trong việc thưởng thức và thi pha trà, khi sự kiện này được nâng thành một nghệ thuật Trước năm 1997, Hồng Kông là nhượng địa của người Anh và từ đó nơi miền đất này người Anh được nổi tiếng là một trong những dân tộc trên thế giới thích uống trà nhất. Tuy nhiên về cách pha chế và thưởng thức thì người phương đông sành điệu hơn và họ đã tạo thành một nền văn hóa trà độc đáo.
           Ðối với một số người Hồng Kông sành điệu, thì việc pha trà là cả một nghệ thuật hay nói đúng hơn đó là thứ đam mê của cả đời người., dĩ nhiên cái giá để thỏa mãn cái thú đam mê trên là sự tốn kém, khi mua sắm các loại trà nổi tiếng như Thiết Quan Âm rất mắc mõ, cũng như các loại bình, ấm, chén khay dùng trong việc uống trà, nhất là tại hòn đảo giàu có này.
           Thật ra thi pha trà đã phổ biến từ đời nhà Tống, do các quan lại trong triều, các nho sĩ và những thương nhân đua tài. Quy luật của cuộc thi rất nghiêm ngặt, nhiều nhà giàu còn dùng cả những chiếc muổng bằng vàng để khuấy trà. Tại Hồng Kông ngày nay, cuộc thi pha trà thường được các tổ chức công tư bảo trợ và được sự tham dự đông đảo của mọi tầng lớp kể cả học sinh, nhằm mục đích trao đổi sự hiểu biết và các kỹ thuật liên quan tới trà. Ngày 12-7-1997 có 12 thí sinh dã lọt vào chung kết cuộc thi pha trà tại Hồng Kông, thật là gay go, mỗi người chỉ có 15 phút vừa để pha ba lần trà. Sau đó là cuộc sát hạch về kiến thức, lịch sữ và triết lý trà. Ðiểm chấm để xếp hạng căn cứ vào bốn yếu tố như hương vị trà, kỹ thuật pha chế, bộ đồ trà và phong độ của thí sinh. Hội đồng giám khảo gồm 10 chuyên gia về trà ở Hồng Kông, Nhật Bản, Ðài Loan, Trung Cộng và Tân Gia Ba. Có ba giải đồng hạng nhất với tiền thưởng và các tài vật trị giá tới 68.000 tiền Hồng Kông, hạng nhì 38.000 và hạng ba 18.000. Theo chuyên gia Yip thì người Hồng Kông đam mê trà thường pha chế theo cách tổng hợp giữa Trung Hoa và Anh. Riêng những người già thì sau khi uống trà xong, họ ăn luôn xác trà gọi là rau đắng. Ngoài ra người Hồng Kông còn xào lá trà với gừng và hành tươi làm món súp trà. Tóm lại trà đã trở thành một triết lý sống tại đây và dã có nhiều câu lạc bộ chuyên về trà ra đời với đông đảo hội viên. Cũng đã có một nhà bảo tàng chứa đủ tài liệu cùng các vật dụng liên quan tới trà.
 TRÀ LỄ, BƯỚC ÐẦU RÈN LUYỆN SỰ KHỔ HẠNH TẠI NHẬT : Người Nhật gọi nghi lễ dùng trà là Chanoyu, ca tụng cái đẹp giữa sự hài hoà từ thiên nhiên cùng tính khắc khổ của con người. Ðây là trà đạo và đối nhiều phụ nữ Nhật cũng là một nghề nghiệp chuyên môn khổ luyện mới đạt được vì những động tác của trà lễ là một hệ thống chặt chẽ, song hành với cách ăn vận bộ quốc phục Kimono truyền thống cùng cách cắm hoa. Trước khi hành lễ, các đệ tử phải cúi đầu sát đất để chào một cây quạt đặt ngay ngạch cửa, vì vật này tượng trưng cho thanh kiếm của các võ sĩ đạo ngày xưa, đặt trước trà đình khi hành lễ.
           Theo Nhật sữ thì chính một thiền sư của Trung Hoa tên Eichu đã mang trà đạo vào nước này từ thế kỷ thứ XV. Suốt bao thế kỷ, trà đạo chỉ dành cho nam giới, qua các thành phần tu sĩ, qúi tộc, thương nhân cùng chiến binh. Mãi tới thời Minh Trị Thiên Hoàng mới được mở rộng cho nử giới nhưng đồng thời cũng bị đe dọa trước sự hội nhập của nền văn minh cơ khí Tây Phương.
          Ngày nay qua cuộc sống bon chen từng giờ để kiếm sống và đoạt vị, nam giới Nhật hầu hết không còn thời gian để nghĩ tới trà đạo, mặc dù nó là một môn học bắt buộc tại các trường Trung Học. Cũng do nghề trà đạo kiếm rất nhiều tiền, nên luôn có những lớp học riêng tại nhà, đa số do nữ nhân giảng dạy, học viên cũng được tuyển chon theo quy luật truyền thống và rất hạn chế, nhằm bảo đãm phẩm chất của trà đồ khi ra đồi hành đạo.
            Tuy nhiên dù muốn dù không, đỉnh cao của trà lễ vẫn còn nằm trong tay nam giới. Ðó là những đại danh sư, có thẩm quyền trong việc cấp bằng tốt nghiệp môn Chanoyu cho giáo viên, hầu hết đều ở Tokyo, bằng một giá cắt cổ. Có vậy những người tốt nghiệp mới được phép hành nghề. Ðiều cũng đáng vì các đại danh sư hiện nay toàn là hậu duệ của Tổ sư môn Chanoyu, từ thế kỷ thứ XV là Sen Rikyu . Ông sống vào thế kỷ XVI, phục vụ cho lãnh chúa lừng lẫy lúc đó là Toyotomi Hideyoshi, người đã dựng lên một trà đình ngay tại chiến trường với các nghi thức trà lễ, giống như thuở trước, Trương Lương dùng tiếng sáo đánh tan quân của Bá Vương tại Cai Hạ. Ở đây đich quân cũng xao xuyến và nản lòng trước hương vị của trà. Năm 1585 , lãnh chuá Hideyoshi được Thiên Hoàng bổ nhiệm làm tể tướng , nên ông này lại cử thiền sư Sen Rikyu làm chủ tế buổi trà lễ cho nhà vua tại một trà đình xây bằng vàng . Nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì, lãnh chúa Hidoyosho bị tẩu hỏa nhập ma và kết tội Rikyu đã đầu độc, nên bắt thiền sư phải tự xữ bằng cách mổ bụng chết.
          Tóm lại khi mọi người bước vào thế giới tĩnh lặng của trà lễ, thì họ chỉ còn là những chiếc bóng đã tự rũ bỏ lại bên ngoài tất cả. Trong suốt thời gian thiền vị, bên bình trà bột xanh, các trà đồ trong tư thế đặc biệt đã thực hiện được cái đẹp thực sư bằng cái triết lý hòa hợp giữa chân, thiện, mỹ thuần khiết. Thật vậy trong trà thất cô tịch, bên ngoài các đoá hoa anh đào đang lao xao đâm chồi dưới bầu trời lạnh băng tuyết phủ của mùa đông, thế nhân như thoát tục giữa lúc nhắp từng ngụm trà màu hổ phách nóng hổi, đựng trong các chén sứ trắng tinh xinh xắn, khiến cho người quên người, quên đời, quên hết dục vọng mà đắm mình trong không gian và tâm hồn tĩnh lặng như mặt nước hồ thu lúc yên bình.
           Với người Nhật , trà đạo là một tôn giáo không có giới hạn, hận thù mà là một cách tu luyện khổ hạnh của triết môn thần học về thực hành, tạo tinh không đối xứng trong trí tưởng , gần giống như thiền học, qua nghệ thuật linh cảm, nên rất hợp với phụ nữ Nhật trong thế giới xô bồ hiện tại -/-

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
Vang bóng một thời cuả Nguyễn Tuân.
Trà Tàu và ấm Nghi Hưng của Nguyễn văn Chính
Liên hiệp báo viết về trà.
The South China morning Post và HongKong Standard tháng 2-1997
World & Worlds tháng 12/2001
Géo tháng 5/1995


Xóm Cồn Hạ Uy Di
Giêng 2017
Mường Giang

Friday, January 27, 2017

Chuyện kể Đêm Giao-Thừa

- " ... Bé Ni thấy tội-nghiệp tụi nó lắm" 
- "Con sẽ vừa đi vừa ăn ..." 

BỐ-THÍ BA-LA-MẬT
VINH-DANH THIÊN-CHÚA TRÊN TRỜI ,
BÌNH-AN DƯỚi THẾ CHO NGƯỜI THIỆN-TÂM

Bố-Thí (= Cho-Tặng) là 1 Đức-Hạnh vô-cùng quan-trọng trong Phật-Giáo, thường nói Hạnh-Bố-Thí , Bố-Thí Ba-La-Mật đứng đầu trong Lục-Độ (= 6 phương-pháp thực-hành giúp đưa ta, độ ta tới được bến-bờ giải-thoát, xa-lìa đau-khổ) . Ba-La-Mật : là tuyệt-đối .
     Cho-Tặng có nhiều hình-thức, đơn-giản nhất là hiện-vật, tiền-bạc, quần-áo, thực-phẩm ... gọi chung là Tài-Thí. "Cao-cấp" nhất là Pháp-Thí: truyền-bá, cổ-xúy, nói về Chánh-Pháp giải-thoát  
     Chỉ xin bàn chút-xíu về cái "thấp nhất" thôi, là Tài-Thí, Cho-Tặng người khác những gì mình có trong tay là điều rất dễ nhưng cũng rất khó. Dễ hay Khó là do lòng Hảo-Tâm và Từ-Bi của mỗi một con người. 
     Có rất nhiều Trường-học, Trung-tâm huấn-luyện, Lò đào-tạo ... dạy cho ta đủ các thứ kiến-thức ngành-nghề mọi trình-độ, nhưng không có "Trường dạy Hảo-Tâm". Học 3 tháng lái được xe Máy-Cày dưới đất, 2, 3 năm lái được Máy-Bay trên trời, chỉ cần 4 tháng Quân-trường người chiến-binh biết bung dù, "lái gió", nhảy từ trên trời xuống đất, 7 năm ra bác-sĩ tổng-quát, 5 năm: người nha-sĩ có-thể nhổ, trồng, trám được bất-cứ cái nào trong cả hàm-răng 32 chiếc... Nhưng phải học bao-nhiêu năm đây thì mới có được "Lòng Từ-Bi" ????
     1 chuyện có thật, 2 anh-em-ruột, chênh 3 tuổi nhưng ngày-sinh rất gần nhau, cha-mẹ thường làm Birthday chung 1 lần, tối đến hai trẻ (7 và 10 tuổi) cùng nhau đếm tiền các Cô-Cậu-Chú-Bác cho. Con-bé Ni đưa hết 200 đô cho Mẹ nhờ chuyển về VN giúp trẻ mồ-côi (mà nó mới xem phóng-sự trên Tivi gần-đây, hãy còn xúc-động, thấy thương lắm). Người Mẹ hỏi thằng con-trai, "Thế còn con thì sao ?" Thằng Boy ngần-ngừ, "Sáng-mai con trả-lời Mẹ, nhưng nếu cho thì con chỉ cho 10 đô thôi nha", sau 1 đêm suy-nghĩ , sáng ra nó nói rất thành-thật, "Mẹ ơi ! Nếu cho 10 đô thì sẽ không đủ để mua mấy thứ con đang thích lắm, con không biết tụi nó là ai, mà tụi nó cũng đâu biết con, tại-sao con phải cho tụi nó hả Mẹ ?" 
- OK, thế thì thôi, không-sao con à !
      Chao ôi, 2 anh-em-ruột, cùng Cha, cùng Mẹ, cùng "Cái Zin"; được nuôi-nấng, dậy-dỗ, thương-yêu, đùm-bọc, chăm-sóc giống hệt nhau, hàng ngày ở chung 1 nhà, ăn cùng 1 mâm, đi trên 1 xe (Phật-Giáo gọi là Cộng-Nghiệp) nhưng Tâm-hồn, Tâm-tư, Tâm-trạng lại hoàn-toàn khác hẳn nhau (Biệt-Nghiệp). Cái thằng Boy này có dạy cho nó 10 năm, 20 năm, hay 30 năm thế-nào là "Lòng Hảo-Tâm" chắc cũng "khó dzô" quá ! Trái-lại, Con-em thì khỏi cần phải nói, khỏi phải "Giáo-dục Tình-cảm" , thì Lòng Từ-Bi, biết Rung-cảm, biết Chia-sẻ, biết Thương-xót, biết Hy-sinh ... đã có sẵn trong trái-tim nó từ bé rồi ! Nó ko cần, "không thèm" phải đi Chùa hay Nhà-Thờ mà "Show" ra cho "Thần, Thánh" thấy ! Thậm-chí nó cũng chẳng biết, chẳng hiểu Luật Nhân-Quả Báo-ứng là cái gì, với con-bé vừa tròn 7 tuổi đầu ! 
     Hành-động "nhịn-thèm" không mua 1 món đồ-chơi nào, để hết tiền cho các Bé khác kém may-mắn hơn mình  (- "Các Hoa-Hồng-Nhỏ không cha, không mẹ trong cái Nhà-Tình-Thương ở VN đó , Bé Ni thấy tội-nghiệp tụi nó lắm")  hoàn-toàn xuất-phát từ Lòng Hảo-Tâm Thuần-khiết ! 
Bố-Thí Ba-La-Mật chính là đây !
Nam-mô A-di-đà Phật ! 
      Chuyện này cũng có thật nữa, 1 người rất giàu ở Ngã-3-Ông-Tạ , trước 1975 Ông ta có-thể là giàu nhất cái khu "nhiều người giàu" này, tên là Tuyển . Hồi còn bé, cu Tuyển nhà nghèo, sáng ko được Mẹ cho tiền ăn quà như những trẻ khác, trước khi đi học chỉ được khi thì củ khoai hoặc quả chuối. Cu Tuyển ko ăn ở nhà, mà xạo Mẹ, "Con sẽ vừa đi vừa ăn" , nhưng kỳ thực là cu Tuyển cho 1 Ông-già "Homeless" nằm ở lề-hè trên đường đi bộ tới trường Tiểu-học cái củ-khoai trái-chuối đó, nó nhịn đói không ăn sáng cả mấy tháng trời liền, cho tới 1 hôm bà hàng-xóm tình-cờ bắt-gặp về méc Mẹ nó !
      Tội-nghiệp cu Tuyển quá, Lòng Từ-Bi, Hạnh Bố-Thí sáng-ngời mà phải "nói xạo", phải "lén-lút"! Chao ôi, có rất nhiều kẻ chỉ thích lên Tivi, có báo đăng, tên ghi "Sổ-vàng" nhiều người thấy ... mới "làm Từ-Thiện", hoặc "cẩn-thận" hơn, "khôn-ngoan" hơn nữa là tới ngay Nhà-Thờ hay Chùa-Chiền cho "chắc-ăn", cho Phật, Chúa dễ... "chứng-giám" sẽ ban-ơn "bội-hậu", nhơn-tiện cầu-xin đủ các thứ luôn một thể! 
      Cu Tuyển phải nhịn đói mới có cái để "Tài-Thí" cho Cụ-già, nhưng biết bao kẻ ăn dư rồi, sợ "Tiểu-đường, Cao-máu, Cao-mỡ"... mới chợt "động-lòng từ-bi bất-ngờ" chia-xớt chút-đỉnh cho người khác; Tuy-vậy cũng còn tốt hơn so với những kẻ rất giàu-có nhưng suốt-đời tuyệt-đối không-hề chia-sẻ cho ai 1 cái-gì bao-giờ, hoàn-toàn Vô-cảm, Vô-tri, Vô-giác, Vô-tâm, Vô-tình, Vô-tư trước cảnh nghèo-đói hàng ngày, hàng giờ bắt-gặp trước mắt, chung-quanh mình, mà khư-khư bám-víu tài-vật tiền-của cho tận tới ngày xuôi-tay nhắm-mắt phải lìa-bỏ tất-cả ... 
Nam-mô A-di-đà Phật ! 
Thiện-tai ! Thiện-tai !
      Câu-chuyện "Con sẽ vừa đi vừa ăn" trên đây đã hơn 75 năm về trước, cu Tuyển ngày ấy, bây-giờ chúng ta phải gọi bằng "Cụ", Cụ Tuyển, năm nay 83 vẫn bình-yên khỏe-mạnh 
Không như Bé Ni (Ba-Mẹ theo Đạo Phật), Cụ Tuyển sinh-trưởng trong gia-đình Thiên-Chúa-Giáo, có-lẽ Cụ cũng chẳng cần biết "Ba-La-Mật" là "cái quái" gì, nhưng chính nhờ Lòng Hảo-Tâm, Từ-tâm, THIỆN-TÂM  Cụ đã thực-hành ngay từ lúc trẻ-thơ thật chính-xác tuyệt-vời Hạnh Bố-Thí ở mức-độ Ba-La-Mật theo đúng Tinh-Thần Phật-Giáo !
      Chỉ còn vài tiếng đồng-hồ nữa Xuân về trên khắp nẻo Quê-hương VN , chúng ta kính-chúc Cụ năm mới mọi sự BÌNH-AN ! 
Nhưng với Cụ, chắc là không cần chúc đâu, bởi vì :
VINH-DANH THIÊN-CHÚA TRÊN TRỜI ,
BÌNH-AN DƯỚi THẾ CHO NGƯỜI THIỆN-TÂM
Tết lại về, năm mới, người Việt trong và ngoài nước lại chúc nhau "Phát tài, Phát túi, Phát lộc ..."  y-như những năm cũ, rất "khách-sáo" và chẳng có gì là "mới" cả ! Tại-sao chúng ta không thành-thật cầu-chúc cho nhau những điều thiết-thực hơn, "Phát-triển Thiện-Tâm", "Phát Tâm Từ-Bi" thực-hành Hạnh Bố-Thí với Đồng-bào Đồng-hương Đồng-loại ?  

CHÚC TẾT
Trân-Tế-Xương

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu ?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ở trong đời.
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,
Sao được cho ra cái giống người.

Sưu tầm trên Internet

Niềm-Vui Qua Mau

Dân-số Miền-Nam VN trước 1975 khoảng 18 triệu , phân-phối làm 4 vùng, tình-cờ mà rất dễ nhớ, theo thứ-tự từ Bắc vào Nam, vùng 1, 2, 3, 4 : là 3, 4, 5 và 6 triệu người 
Người ta thường nói "Vùng" tức-là "dân-sự-hóa" cách gọi "Quân-Khu", Vùng 1 có-nghĩa là Quân-Khu 1, Vùng 2 = Quân-Khu 2 
      - Vùng 1: gồm 5 tỉnh Trị-Thiên-Nam-Tín-Ngãi (Quảng-Trị, Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi) . Sau 1975 Quảng-Tín sát nhập vào Quảng-Nam , Đà-Nẵng tách ra khỏi Quảng-Nam để trở-thành "Thành-phố trực-thuộc trung-ương" 
      - Vùng 2: gồm 12 tỉnh (5 thuộc Trung-Nguyên Trung-Phần, 7 thuộc Cao-Nguyên Trung-Phần) . Sau mấy lần "nhập rồi lại tách" sau năm 1975, ngày nay chỉ còn 10 tỉnh 
      - Vùng 3: 9 tỉnh , nay còn 6
      - Vùng 4: 16 tỉnh, nay là 12 
"Vùng 4" thời VNCH (hay "Miền-Tây" ngày-nay) là cách gọi tắt của "Miền-Tây Nam-Bộ" hay "Đồng-Bằng Châu-Thổ Sông Cửu-Long" vốn là 1 vùng đông dân-cư nhất Miền-Nam mà dân-số lại cũng tăng nhanh nhất nước, ko phải do "nhập cư" (thí-dụ như vùng Cao-Nguyên Trung-Phần: trước 1975 có chưa tới 1 triệu dân, ngày-nay gọi Tây-Nguyên: dân-số khoảng 5 triệu, là do các vùng khác di-cư tới lập-nghiệp)  mà do "sinh-xuất tự-nhiên"
     - Sau khi thống-nhất năm 1975, VN tuyên-bố dân-số toàn-quốc là 45 triệu
    - Thống-kê giữa năm 2014: 90,5 triệu 
Tức-là chưa cần phải chẵn 40 năm, dân-số VN đã tăng gấp đôi (Về phương-diện Dân-Số-Học -Demography- 1 dân-tộc sinh-sản "khá nhất" cũng phải cần ít-nhất 30 năm để có-thể "Double" dân-số) 
      Con-số 6 triệu người "ở Vùng 4 thời VNCH" có-thể là ko chính-xác lắm, vì đó chỉ là "trong vùng mà chính-quyền Miền-Nam tuyên-bố kiểm-soát mà thôi ?" , trên thực-tế ngày-nay dân-số Miền-Tây là gần 20 triệu, 1 trong 2 "cụm dân-cư" đông nhất VN , chỉ thua vùng Trung-Châu Bắc-Việt (mà trung-tâm là Hanoi) 
Và trong tương-lai dân-số "Đồng-Bằng Châu-Thổ Sông Cửu-Long" có thể bắt-kịp, thậm-chí là qua mặt dân-số "Đồng-Bằng Châu-Thổ Sông Hồng-Hà" (cái-nôi của dân-tộc VN từ mấy ngàn năm) 
      Miền-Tây Nam-Bộ từ lâu nổi-tiếng là trù-phú (với đồng-ruộng phì-nhiêu bát-ngát "thẳng cánh cò bay", với "Công-Tử Bạc-Liêu"), nhưng đó chỉ là thời mà kinh-tế chủ-yếu dựa vào Nông-Nghiệp! Ngày nay trái-lại, Miền-Tây là vùng khá nghèo, ít Công-Ty Hãng-Xưởng, ko hầm-mỏ, rừng cây kỹ-nghệ ... nên thanh-niên nam-nữ phải "di-dân" lên Saigon kiếm việc làm khá đông. 
      Saigon, trung-tâm kinh-tế số 1 của cả nước, dân nhập-cư rất nhiều từ đủ các vùng-miền, mà từ Miền-Tây chắc-chắn là đông nhất; Khỏi cần phải thống-kê, trong đủ mọi lãnh-vực ngành-nghề, chúng ta cứ hỏi "Quê Em ở mô" thì biết ngay. 6, 7, 8 muơi % câu trả-lời là "Miền-Tây" !
      Người nhập-cư SG hầu-hết về Quê xum-họp gia-đình dịp Tết theo phong-tục cổ-truyền, thường rất "khổ-sở" vì vé-xe tàu-đò ! Nhưng đó là những người về Quê Miền-Trung, Miền Bắc thôi, chứ với dân Miền-Tây thì tương-đối nhẹ-nhàng hơn vì có-thể chạy xe-máy 1-2 trăm cây-số được. Hàng năm vào mấy ngày giáp Tết tuyến đường SG --> Miền-Tây: là "biển xe-máy" mênh-mông trùng-điệp, đeo, đèo, xách, ôm theo những túi đồ, những gói quà Tết "cồng-kềnh" bọc trong giấy Plastic trong-suốt khoe thấy những hộp-bánh, hộp-trà, những chai-rượu "dởm" ... thấy vừa nhếch-nhác vừa vui-vui mà ... "ngậm-ngùi" ! 
Năm nay Mùng 1 Tết rớt vào Thứ-Bảy 28-01-2017 
Đa-số các Công-ty cho công-nhơn nghỉ sớm 2 ngày, nghĩa là chiều Thứ-Tư 25-01-2017 (28 Tết): sau-khi làm-việc xong, dân nhập-cư Miền-Tây có-thể cưỡi xe-máy "hồi-hương" được rồi ! Và thực-tế là ko mấy ai để đến sáng Thứ-Năm, phí mất 1 buổi-tối quý-giá sum-họp bên Người thân-yêu . 
     Nhưng, đúng lúc "biển xe" đang cuồn-cuộn suôi về Miền Tây thì 1 cơn-mưa trễ cuối-mùa bất-thường và bất-chợt đổ-ập như trút-nước xuống hàng triệu con-người đang hăm-hở về Quê  ... 
     Trời-Phật "ko thương" người-dân lao-động vất-vả cực-khổ, Chúa-Ba-Ngôi Nhơn-Từ cũng chẳng "ban Phép-Lành" !!!? :

Tôi có 1 kỷ-niệm với Miền-Tây, với Tết Miền-Tây, đúng hơn là với "Miền-Tây lúc hết Tết", 1 kỷ-niệm thật buồn, khó quên ! 
      - Chị Ba, người Sóc-Trăng, giúp việc nhà cho Cô-em từ nhiều năm, có thông-lệ là "Chấp-nhận ko về quê trước Tết, mà đến Mùng 6 mới về" thì được thưởng lương tháng 14 (tháng 13 thì đã đương-nhiên rồi). Năm đó 2011 tôi "cao-hứng" theo chị Ba về Sóc-Trăng cho biết "Tết dưới Quê" nó như-thế-nào (còn Tết SG thì đã biết rồi, ko hề "vĩ-đại" 1 tí nào như trong ký-ức mấy chục năm trước !) , mà thực-ra lại là để chứng-kiến cảnh chia-tay buồn thê-thảm của vùng-quê Miền-Tây mấy ngày sau Tết ! 

Nhưng cũng nhờ chuyến đi mới biết được 1 số điều:
      - Chị Ba đăng-ký xe quen, có "Trung-chuyển miễn-phí", tưởng sao chỉ là 1 xe máy tới chở cả 2 người ! Tôi ngồi giữa, chi Ba ngồi sau, trên Guidon xe và trước tài-xế máng, treo, chất đồ tùm-lum rất nhếch-nhác, mà điều đáng lo nhất là sợ bị công-an phạt cái-tội chở 3, nhưng tài-xế trấn-an: "Vô-tư đi, nó ko thổi xe mần-ăn đâu". Mà đúng thật, gặp mấy công-an họ đều "ngó lơ" !? Thì ra luật ở VN rất "giây-thun", chỉ phạt tùy trường-hợp thôi! 
      - Xe về gần tới nhà, chị Ba mới lấy nữ-trang ra đeo vào Tay, Tai và Cổ ! Ko ngờ dân-quê Miền-Tây lại "ái-mộ" mấy thứ này dữ vậy ?  Và khi về tới nhà tôi mới hiểu được cái không-khí thế-nào là "Cô Thắm về làng" ... chắc-chắc còn hơn "VK về SG" rất nhiều, nhất là cái cảnh "hàng-xóm náo-động chạy qua" thì SG thua xa ! 
     - Vùng đó thuộc Sóc-Trăng nhưng lại rất gần thành-phố Bạc-Liêu (Tỉnh-lỵ của tỉnh Bạc-Liêu), thì-ra thành-phố Bạc-Liêu ko nằm ở trung-tâm của Tỉnh nhà mà lại quá lệch về sát tỉnh Sóc-Trăng! Và tôi đã được biết chợ Bạc-Liêu, biết căn-nhà hồi-xưa của Công-Tử Bạc-Liêu. Nghe nói con-cháu của cái tay "đốt tiền" này bi-chừ nghèo "mạt-rệp" ! Với tâm trạng "mộc-mạc" của dân Việt hồi-xưa, tay này nổi-tiếng nhờ "đốt tiền chơi sang" ! Chứ mấy lão Tỷ-phú Trump, Bill Gates và tất-cả các nhà giầu Âu-Mỹ thời-nay chẳng ai "ngố-ngốc" như-rứa , chắc-chắn sẽ ko được ai ngưỡng mộ , mà đó còn là việc "illegal" bất-hợp-pháp 1 cách "ngây-ngô-ngớ-ngẩn", cà-chớn và dở-hơi! 
    - Ông Tư ở sát vách nhà chị Ba, có 2 con-trai 1 con-gái (con trai lớn đã có vợ + 2 con) cả 3 cùng làm ở SG . Sau buổi chia-tay ngậm-ngùi là không-khí lo-lắng bao-phủ cả gia-đình, bởi-vì cả 3 người đều ko biết chữ nên ko đọc được bảng-chỉ-đường ! Chú Tư căn-dặn kỹ các con "Cứ tới chỗ nào đường chẻ nhánh thì phải hỏi 2, 3 người rồi mới lấy nhánh nào nghe hôn !" Tới chiều có tin báo về "đã tới Bình-Chánh rồi" (vào tới Bình-Chánh cửa-ngõ SG thì ko còn có-thể bị lạc được nữa) , 1 không-khí vui-mừng "thở-phào" tạm quên đi nỗi-buồn chia-tay!
     - Nhà Bà Sáu cách vài căn, sửa mái và lát xi-măng cái sân, làm từ hôm trước Tết, đến-nay mới vừa xong. Chị Ba nói tui "Nhờ tiền của 2 cô con-gái làm công-nhơn ở SG mới sửa nhà được đó". Thật tội-nghiệp, đồng-lương công-nhân ít-ỏi, nuôi thân đã khó quá, còn dẻ-sẻn dành-dụm chút-ít mang về giúp gia-đình! Đúng là "Gia bần tri hiếu tử, Quốc loạn thức trung thần" (Nhà nghèo mới biết đứa-con nào có hiếu, nước loạn mới biết ai là trung-thần)
     - Bản-thân chị Ba, có 1 bé-gái 6 tuổi rất dễ-thương (mà cũng giống-như "chuyện rất thông-thường ở VN": chừ chẳng biết "Bố ở mô" , nói chi chuyện "cấp-dưỡng" Child Support ?), nghe Mẹ về Bé nôn-nao chờ-đợi từ sáng và giờ thì rất "chảnh" với các bạn. Bà-Ngoại nói "Giờ con Lan ngó-lơ Ngoại rồi, tới hôm Mẹ sắp đi là nịnh Ngoại lại cho coi!"
Tôi xúc-động và ám-ảnh hoài câu-nói của bà-cụ!
Tuổi-thơ phải sống xa Mẹ là nỗi bất-hạnh lớn!
Hàng-năm, chị Ba về Quê 2 lần: dịp Tết 6 ngày và 1 đám-giỗ 3 ngày . 
Bà-Ngoại đưa bé Lan lên SG 1 lần (Bà ở nơi nhà-trọ với 1 người con khác , còn bé Lan thì Cô-em tôi nói mang về nhà ở luôn với chị Ba cho Mẹ-Con được gần-gũi tối-đa) 
Thế-là suốt cả 1 năm-trời bé Lan chỉ được gặp Mẹ có 3 lần, tổng-cộng ko quá 13, 14 ngày ! Và những ngày dài còn lại là ...  "nịnh Ngoại, nhớ Mẹ" 
Hồi nhỏ chúng ta chỉ mong Tết thôi ... mà sao thấy lâu quá lâu !
Với bé Lan chắc còn thấy lâu hơn rất nhiều vì vừa mong Tết, vừa mong Mẹ !!
Mong mãi, mong hoài ... Mẹ mới về ... nhưng "niềm-vui qua mau" như cơn gió thoảng ... rồi Mẹ lại đi mãi đi hoài ...
Nguyện-cầu Quê-hương bớt khốn-khó, bớt chia-xa, bớt trông-chờ trông-mong ... 

Tối 29 Tết Kỷ-Dậu (26-01-2017)
Sưu tầm trên internet 

Những Tết Năm Xưa Ở Phan Thiết - Mường Giang

          Trước giao thừa mỗi năm suốt phần đời lưu lạc, tôi hay quẩn quanh dọc theo con phố nhỏ nơi xóm biển đìu hiu, mõi ngóng về bên kia bờ Thái Bình Dương, mà hồn rưng rưng thương nhớ Phan Thiết, một quê hương ngọt ngào sửa mẹ thế nhưng mãi vẫn muôn trùng. Ôi giấc mơ chưa chi đã dẫn ta về thôn xóm cũ, về những ngày xuân tết vẹn vầy, về lại với những trang lưu bút ngày xanh của một thời tuổi trẻ sao sớm phai tàn, chẳng biết bây giờ có ai còn nhớ ? Bao nhiêu năm qua rồi, mỗi lần tết đến lại buồn, nhất là lúc đứng nhìn những giọt mưa phùn nhỏ những giọt trắng trên từng cánh cúc đang hắt hiu nơi thềm gió.. Phan Thiết năm nao mùa đông trời thường se sắt không mưa nhưng nếu hờn dỗi bất chợt với một cơn mưa rào, thì đã thấy như xuân đang bắt đầu chúm chím trên giậu hoa, ngọn cỏ. Đường phố được mưa lau chùi sạch sẽ nhưng hữu tình nhất vẫn là nụ cười của người Phan Thiết không còn thấy héo hắt muộn phiền. Những hàng vông, gốc phượng, những chiếc lá me non cũng phe phẩy mừng rỡ. Tất cả đang cùng xuân trở về.

1- Chợ đêm ngày Tết:
          Trước tháng 5-1975 năm nào cũng vậy, hể tới mồng mười tháng chạp là không khí tết đã thấy bắt đầu ở đường Gia Long nhưng vui nhộn từ sáng 23 đưa ông Táo chầu trời. Bắt đầu từ ngày này, xã Châu Thành sẽ có người tới vẽ lô, đánh số khắp vùng dành cho chợ tết, từ hai con đường Nguyễn văn Thành, Lê văn Duyệt dọc theo vườn hoa nhỏ trước nhà sách Vui Vui và suốt con đường Gia Long chạy ngang nhà lồng chợ lớn.
          Ngoại trừ khu vực quanh vườn hoa chỉ bán hoa tết, khắp nơi không ấn định món hàng, lô của mình trúng thầu muốn bán gì cũng được, cho nên khắp chợ tết vừa thấy lù lù một núi dưa hấu, đã gặp ngay gian hàng bán bánh mứt, rồi lại chuối, dưa và cứ thế xen kẽ lẫn lộn. Thông thường món hàng bày bán sớm nhất trong chợ tết là mai, sách báo, lịch xuân và quần áo may sẵn dành cho các gia đình nghèo. Chợ đêm chính thức mở từ ngày đưa ông Táo về trời cho tới chiều ba mươi mới tan. Gọi là chợ đêm vì người bán hàng trụ tại chổ suốt thời gian tết, dù có khách hay không. Chợ bắt đầu đông từ sau ngày 25, các nhà vườn quanh thành phố tại Phú Lâm, Phú Hội, Đại Nẩm, Lại An kể cả Rạng, Thiện Nghiệp cũng bắt đầu mang các thổ sản địa phương như hoa, chuối, trái cây các loại, dưa hấu, cau trầu, gà vịt về bán tết. Đi chợ đêm Phan Thiết thật vui dù chỉ để xem người và được chen lấn, cho nên đêm qua đã đi, đêm nay cũng đi để mệt vì chen lấn người quen ke lạ cho tới xế chiều ba mươi tháng chạp tan chợ, mới hết đi chợ.
          Những ngày giáp tết, hoa và trái cây từ muôn phương trút về vô số kể, như là người Phan Thiết chỉ biết ăn tết bằng hoa, mặc sức cho những kẻ có tiền lựa chọn. Thôi thì đủ thứ từ loài hoa bình dân như mồng gà, trường sanh, vạn thọ, cúc, thược dược.. mà ai cũng mua được cho tới những loài hoa vương giả khét tiếng của Bình Thuận, mà MAI là số một. Đủ thứ mai, từ loại vàng phớt năm cánh mỏng lúc nào cũng như đang chực cuời với gió xuân, cho tới nhiều loại mai quý khác, nhiều cánh, đủ màu. Theo lời các bậc cao niên, thì mai là người bạn lâu đời của Phan Thiết, vì vậy mỗi độ xuân về, nhà nào có nghèo túng cũng ráng kiếm một cành mai để vui xuân. Hoa bán nhiều, người mua cũng đông nhưng có năm thiếu người thưởng thức, nên vào phiên chợ cuối chiều 30, các chủ hoa đã lạnh lùng vứt bỏ bên vệ đường, mặc cho hoa tàn, cánh rũ. Ôi thảm thê biết bao cho kiếp hoa.

2- Nuôi Vịt Tết:
          Hằng năm cứ sau vụ lúa chín thì các nông dân vùng Hàm Thuận, Thiện Giáo nghỉ một thời gian ngắn, mới tiếp tục cày bừa trở lại vào tiết lập đông, để lo vụ muà đông - xuân. Chính trong thời gian này, một số lớn nông dân đã bắt đầu lo chuyện nuôi vịt tết, ngay trên những đám ruộng còn bỏ trống chưa cày trở lại, khắp Phú Lâm, Phú Hội, Bình Mỹ Thuận, Tầm Hưng, Ma Lâm.. Vịt con nuôi bằng lúa rụng, lúa sót trên các cánh đồng. Nghề nuôi vịt thấy vậy chứ vất vả trăm chiều, nhất là việc tìm thức ăn cho đàn vịt đông đảo hằng trăm, hàng ngàn con do nhiều người gộp lại nuôi chung. Khó nhất là giai đoạn vổ béo vịt để chuẩn bị bán. Lúc này vịt ăn nhiều và hay ăn bậy nếu bị đói, nên người chăn vịt ngoài việc mua thêm thức ăn như cá, cua, tôm, cám.. còn phải canh giữ cẩn thận để vịt không chạy loạn ăn mạ lúa của người. Thông thường không thấy có lộn xộn trong việc dành giựt vịt giữa các chủ nuôi, đây là bí quyết trong nghề nuôi vịt, không giải thích được.
          Sau hai tháng bôn ba cực nhọc trên đồng cạn, dưới đồng sâu, giờ thì đàn vịt cả ngàn con cũng kịp lớn, béo nọng.. chực chờ từng chuyến xe đủ loại ngày đêm từ Phan Thiết lên để bốc vịt và trứng về bán cho kịp các buổi chợ tết. Quang cảnh làng xóm tỉnh mịch ở miền quê bỗng vui lên bởi tiếng kêu cạp cạp của bầy vịt đó đây khắp làng. Từ ngày 20 tháng chạp, nhà nào hầu như cũng đã có một vài cặp vịt , chục quả trứng, để chuẩn bị mâm cớm cúng ông Táo và tất niên ngày 30 tháng chạp.

3- Cái ăn trong ba ngày Tết:
          Tưởng như cái thị xả nhỏ nhoi này sẽ không bao giờ ngủ được. Điều này cũng dể hiểu vì người Phan Thiết quanh năm suốt tháng làm lụng vất vả từ dân bờ cho tới bạn biển nhưng gặp dịp là thẳng tay tiêu xài lo gì, bởi xưa nay Bình Thuận vốn nổi tiếng là chốn rừng tiền biển bạc, là xứ ăn chơi, nên 'cái nồi cũng bán, cái tơi cũng cầm' cũng là sự thường tình vì cầm bán rồi lại mua sắm lại mấy hồi vào năm tới nếu trúng biển, được mùa. Chính những nét đặc trưng này đã làm cho người Bình Thuận hãnh diện khi giang hồ khắp chốn. Tóm lại đây là cách sống của dân Bình Thuận khó lòng thay đổi được.
           Đi chợ trong ba ngày tết là để lo cho gạo nước đầy lu, làm các món ngon vật lạ để ăn cho nhiều và ngon, nên ai cũng thích đi chợ để mua sắm. Trong thời gian này, các lò bánh tráng ở ngoại ô Phan Thiết như Lại An, Phú Long, Tân An.. phải làm suốt ngày đêm vì khách hàng đặt bánh Tết ngay từ tháng 11 âm lịch. Bánh tráng là món ăn ngày tết, dùng để cuốn thịt măng kho hay bánh tàt, nên nhà nào cũng cần tới. Vùng quê không ai mua bánh mà chỉ tới lò tráng một vài thúng gạo, rồi trả tiền công mà thôi.
Từ trung tuần tháng chạp, trong khi tại các phố Gia Long, Đồng Khánh, Đinh tiên Hoàng, Lý thường Kiệt , Lê văn Duyệt.. quanh chợ lớn mới có vẻ tết, thì hầu như khắp xóm làng, ngõ hẹp Phan Thiết, nhà nhà đều bận rộn đóng cốm hộp. Đối với phong tục cổ truyền Việt Nam, đây là món đặc biệt phải có để cúng trên bàn thờ ông bà trong ba ngày tết dù là lương hay giáo.
          Theo sử liệu, thì cốm đã theo gót chân lữ hành của người dân Thuận Quảng trên bước đường nam tiến. Người dừng lại ở Thuận Trấn từ ba trăm năm trước thì cốm cũng nương theo và trở thành sản phẩm quen thuộc của người dân miền biển mặn. Từ xuất xứ cốm sà lam Quảng Nam mà Hải Thượng Lãn Ông, qua tác phẩm 'Nữ Công Thắng Lãm' gọi là CỐM (croquantos) , chỉ một một loại bánh cổ truyền làm bằng hạt nổ, và mỗi vùng lại có một cách làm riêng. Tại Bình Thuận, cốm được làm bằng loại nếp ba tháng. Đây là một đặc sản của địa phương có hương thơm ngào ngạt, chỉ riêng dùng để đóng cốm hộp. Nếp từ đồng dược mang về nhà ngay từ tháng 10 âm lịch, để kịp rang thành nổ mới kịp đóng cốm tết. Theo các nhà chuyên môn cũng như các bà nội trợ giỏi, thì muốn cho cốm ngon, ngoài nổ còn phải có bí quyết thắng đường, pha chế lượng gia vị hỗn hợp gừng, nho khô, me và thơm chín. Riêng cái khuôn dùng để đóng cốm gần như có kích thước nhất định, bằng gỗ hình khối chữ nhật, có thể tháo rời ra được để lấy cốm ra phơi nắng. Cốm được bọc bằng giấy màu đủ loại, các mặt đều có dán hoa hòe rất đẹp. Ngày tết, nhà nào dù theo đạo gì chăng nữa, cốm cũng đều có mặt trên bàn thờ. Tại Phan Thiết, trăm năm qua, gia đình ông Lê Chi chuyên nghề làm cốm tết bằng nếp trồng tại Phú Long. Ngày nay món cốm sấy qua nhản hiệu 'Hòa Hiệp' của Lê tộc tại Phan Thiết, đã là món hàng thời thượng có mặt khắp nơi, cũng như cái hương vị cay cay ngọt ngọt của cốm, làm chợt nhớ tới tết năm nao ở quê nhà.
Ăn Tết cũng không thể nào thiếu được món măng hầm với thịt heo hay vịt. Măng xuất xứ từ cây tre qua cái tên khoa học là bambusae thuộc giòng họ lúa (gramineae), có mặt mấy ngàn năm trên đất Việt, từ đồng bằng lên tới sơn khê. Tại Bình Thuận từ tháng 7 tới tháng 9 âm lịch là mùa xắn măng, vì thời gian này măng đã vương lên khỏi mặt đất bên các bụi tre khắp các địa phương trong tỉnh và những rừng tre kế cận dọc theo các bờ sông Quao, La Ngà, nhưng nhiều nhất là vùng Cà Tót, Đức Linh, Gia Bát.. Lấy măng từ gốc tre già cũng dể, chỉ cần một cái câu liêm cán dài có lưởi sắt là đủ. Mụn măng tươi màu trắng, đem về bốc vỏ và luộc chín với nước pha ít vôi loãng. Sau đó đem măng luộc chín, đã biến thành màu vàng nghệ, tước sợi và đem phơi khô chừng hai hôm là dùng được. Trung bình 10 ký măng tươi mới lấy được 1 ký măng khô.
Măng được mua từ chợ về trước khi đem hầm thịt, lại phải ngâm với nước lá xả và luộc thêm nhiều lần cho măng mềm hơn, đồng thời mất đi chất đắng của gốc tre. Trước đây khi cá mòi còn, món măng tươi nấu với cá mòi trủng, mòi dầu là thức ăn phổ thông nhất khắp miền biển mặn Bình Thuận.
          Ăn tết xưa nay, người Bình Thuận dù túng thiếu thế nào cũng không dám quên BÁNH TÉT, trước cúng gia tiên, ông bà lại cũng là món quà đặc biệt để tặng thân bằng quyến thuộc ăn chơi trong mấy ngày đầu năm. Theo sử liệu, bánh chưng hình vuông và dẹp, gói bằng lá dong rất thông dụng ở miền Bắc. Còn bánh tét là những đòn tròn, gói bằng lá chuối rất được ưa chuộng tại miền Nam. Cả hai đều làm bằng một thứ nguyên liệu giống nhau gồm nếp, nhân thịt, đậu.. Riêng bánh chưng miền Bắc có thêm thảo quả và dầu cà cuống nên bánh rất thơm ngon. Cả hai loại bánh trên đều xuất xứ từ thời Vua Hùng dựng nước, ngoài ra bánh còn mang ý nghĩa rất thiêng liêng về tập tính của dân tộc Việt, trong đó bánh dầy (tét) có hình tròn tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông là biểu hiệu của đất, nếp cùng nhân đậu, thịt mở là nhân sinh vạn vật. Sau cùng các lớp lá bọc bên ngoài mang ý nghĩa thâm sâu của người xưa, đó là sự đoàn kết đùm bọc của người trong một nước, cho dù ở hoàn cảnh nào, buồn vui, hoạn nạn hay hạnh phúc, đều phải sớt chia.
          Phan Thiết năm nao tuy không là một nơi chốn phồn hoa đô hội nhưng vẫn là miền thị tứ sầm uất, giàu có, quy tụ người khắp mọi miền đất nước. Vì vậy chuyện ăn uống trong ba ngày tết tại đây cũng đa dạng và cầu kỳ, không những trong giới người Việt mà còn có nhiều khác biệt giữa năm bang hội người Hoa tại địa phương.
Nhưng dù là ai chăng nửa, đối với người Việt, nồi thịt kho măng khô là quan trọng hơn hết. Vơí người Phan Thiết gốc Nam phần, thì nồi thịt kho tàu phải có nước dừa để ăn với dưa giá sống có trộn thêm cà rốt, lá hẹ, ớt sắt sợi và cuống củ cải. Thịt được dùng để kho phải là thứ thịt heo ba rọi vừa nạc vừa mỡ. Kho nồi thịt ngon ăn ba ngày tết, đòi hỏi phải có kỷ thuật làm bếp giỏi, sao cho lúc chín, phần nạc thì có màu đỏ au đẹp đẽ, còn lớp mỡ thì da phải nở ra thật mềm mại, có như vậy ăn liên tiếp trong mấy ngày tết vẫn không thấy ngán, trái lại nhìn tới đã thèm. Còn phải có mấy hủ củ kiệu muối với tôm khô loại lạt muối, để các bợm nhậu đưa cay trong khi chờ cao lương mỹ vị ngày tết. Riêng củ cải được dùng với bánh tét gói với bánh tráng mỏng tại các lò Phước thiệu Xuân, Cây Chôm, Xóm Luạ.
           Với các gia đình trung lưu, thì các bửa ăn tết luôn có món khổ qua dồn thịt bầm trộn với tôm quết nhuyễn, tuy vậy nhiều người cử vì sợ ăn rồi thì khổ quá suốt năm. Cũng do người Bình Thuận có gốc gác từ nhiều địa phương nên cái ăn cũng thật phong phú. Về món ngọt thì không làm sao tính hết, nào cốm, chè, xôi vị pha lá dứa hay lá cẩm. Còn mứt cũng đủ loại từ gừng cay, bí dòn, dừa thơm, cà chua cho tới hạt sen, chà là lạ miệng, món nào cũng ngon tuyệt cú mèo. Từ thập niên 70 về sau, người Phan Thiết gần như không gói bánh ít tại nhà, mà mua ở chợ. Hai bà Cửu Khói và Hai Nhan nổi tiếng nhiều năm về các loại bánh gói lá, kể cả bánh in Hải Dương, bánh bò bông, bánh bông lan và bánh sà lam gốc Duồng.
           Nhưng ăn uống cầu kỳ phải nói là người Huế sống rất nhiều tại đây, nhà nào tết cũng có chả lụa, chả quế, giò thủ, thịt dông chân giò hay thịt gà nấu dông. Tuy nhiên hấp dẫn hơn hết là món giả cầy của Bắc Hà. Đây là đặc sản Việt Nam nấu bằng giò heo cạo sạch lông, đem thui, chặt khúc nhỏ rồi nấu với riềng, mè.. tưởng tượng như đang ăn món "sống trên đời" lạ miệng, ăn hoài không thấy ngán.
           Riêng người Phan Thiết gốc Hoa cũng có nhiều khác biệt. Họ ăn uống theo phong tục cổ truyền của cha ông có từ bổn xứ. Do trên người Quảng Đông ngày tết thế nào cũng có lạc xưởng, thịt heo ướp ngũ vị hương loại hảo hạng có ướp rượu mai quế lộ, lạp xưởng gan heo, vịt khô lạp áp hay bắc thảo. Còn thêm lạp dục tức là món thịt heo ba chỉ cắt sọc từng dải phơi khô. Vịt khô, heo khô sẽ được hấp với gừng lát là nón ăn chính trong ba ngày đầu năm mới. Những nét đặc trưng của người Quảng Đông là cúng con gà mái vào lúc giao thừa, còn ngày mồng hai mở cửa hàng phải làm gà trống thiến. Với các nhà giàu, ngày tết còn thêm món bát bữu với bong bóng cá, tóc tiên, hạt sen, nấm đông cô, táo đỏ, củ năn và bún tàu. Để lai rai đưa cay dĩ nhiên chẳng bao giờ thiếu các món nhắm như tôm khô, hột vịt bắc thảo, củ cải muối và thịt đùi heo hun khói. Còn trên bàn thờ khắp mọi nhà thì luôn luôn có ổ bánh tổ, ngoài bọc giấy hồng điều có in bằng mực tàu mạ hoàng nhủ các chữ phúc hay là đại cát. Đặc biệt trong ba ngày tết, người Quảng Đông không giết vịt vì kiêng tiếng kêu cạp cạp mà họ cho là xui xẽo trong sự làm ăn. Đối vơí người Tiều, nhóm người Hoa đông thứ hai tại Phan Thiết, tuy cùng nằm trong tỉnh Quảng Đông nhưng ngôn ngữ của họ lại thuộc Hạ Môn, Phúc Kiến. Do trên giữa hai bang có nhiều khác biệt, nhất là phong tục, tập quán trong ba ngày tết. Trong khi ngưòi Quảng Đông không ăn vịt, thì ba ngày tết là dịp để người Tiều ăn vịt mà họ cho là lấy hên đầu năm. Món chính là vịt ram. Vịt sau khi làm xong, đem luộc vừa chín vớt ra, chặt thành miếng lớn rồi bỏ vào chảo mỡ đang sôi sùng sục. Riêng nước luộc vịt, được dùng để nấu xôi đậu phộng, ăn chung với thịt ram trên. Một số người Tiều lớn tuổi, ngày tết vẫn còn giữ phong tục dùng các món thịt ngỗng, vịt, đầu heo muối hun khói xác mía. Tóm lại món ăn của người Phan Thiết trong ba ngày tết năm xưa trước 1975 khi nhớ lại bánh tổ chiên, bánh tét giòn, cá thu kho ăn với dưa món. Rồi còn chả tôm, tré, nem, giò lụa.. bao nhiêu món ngon vật lạ của một thời quê hương hạnh phúc.

4- Hái lộc đầu xuân:
          Ba trăm năm thành lập, ngoài việc duy trì và bảo quản nguyên vẹn các di tích cổ truyền của vương quốc Chiêm Thành, người Bình Thuận còn phát huy nền văn hoá Đại Việt mà tổ tiên đã mang tới từ Thuận Quảng. Đó là các công trình kiến trúc chùa, đình, dinh, vạn.. dù nay đã trải qua bao đổi đời thê thiết của thời cuộc, may mắn một số lớn vẫn còn nguyên vẹn trong sự bao che, bảo vệ của Việt Nam Cộng Hòa suốt thời kỳ bom đạn. Chung trong nền văn hoá đặc thù dân tộc, có tục hái lộc đầu năm rất được người Phan Thiết ưa thích và mến mộ. Tuỳ theo quan niệm và ý thích, mọi người có thể xuất hành ngay sau giao thừa, hoặc sáng mồng một tết nhưng dù có chọn giờ nào chăng nửa, thì cũng chung mục đích là mơ ước sang năm mới được an bình, hạnh phúc và thắng lợi.
           Phan Thiết quê tôi, mãnh đất cuối cùng của miền Trung nước Việt, chói chang cát trắng và năm tháng chào đón gió biển lồng lộng. Thành phố của cá mực, nuớc mắm, dinh vạn, chùa chiền, của hát chèo, đua ghe, múa rồng, thỉnh ông đi chơi và ăn uống no say trong ba ngày tết. Tất cả bây giờ chỉ còn là một kỷ niệm. Năm nay cũng như bao mùa xuân qua, ta lại ăn tết xa nhà. Trong cái rét căm căm nới xứ người, chợt nhớ quay quắt những tết năm xưa cùng ai đi chùa hái lộc giữa cảnh vắng mù sương, chỉ còn có tiếng sóng biển từ xa vọng về.
           Tuy khắp thành phố có nhiều chùa lớn và đẹp như các chùa Ông, Bà, Phật học, Bình Quang, Chùa Cát, Vạn Thiện, Thủy Tú, Nam Nghĩa.. nhưng vì số người đi lễ chùa và hái lộc quá đông, nên nơi nào cũng tấp nập nam thanh nữ tú, quang cảnh thật vui vẽ. Quanh năm suốt tháng làm việc vất vả, việc tết nhất cũng đã lo xong, nay có dịp nên ai cũng muốn đi vãng cảnh chùa, trước là để cúng Trời Phật, sau tìm một chút an bình cho tâm hồn, bởi vậy ai cũng thích chọn thời điểm giao thừa hay gần sắp sáng cho tinh khiết.. Ngày tết nên gì cũng mới hết kể cả sự giao tiếp. Trên mọi nẽo đường xe cộ tấp nập đông đảo. Hai vĩa hè cũng rộn rịp khách bộ hành, các cô các bà áo dài đủ màu tha thướt còn đàn ông con trai thì vận âu phục tươm tất, thỉnh thoảng có một vài cụ chít khăn đống, vận áo dài the. Nhưng lăng xăng nhất vẫn là lủ trẻ trong các bộ quần áo mới xúng xính, la hét vui cười, khiến kẻ bàng quang cũng cảm thấy hạnh phúc lây. Chùa chiền sáng rực ánh đèn, trong lúc người lớn kính cẩn làm lễ Phật, thì bên ngoài bọn trẻ nao nao chờ hái lộc. Cây không cao lắm, vừa vặn với tầm tay của người lớn, khắp nơi tô điểm bằng những bao lì xì đỏ thắm, treo trên các nhánh cây vừa trổ lộc xanh mơn. Nhiều người Hoa ở Phan Thiết năm xưa khi đi hái lộc đầu năm ở chùa Ông, thay vì hái lộc cây, họ lại mang về nhà hương lộc, tức là những cây nhang dài và lớn vừa cúng ở chùa xong, còn cháy dang dở vội mang về cắm ở bình nhang trên bàn thờ nhà mình.
           Có còn hay không những đêm giao thừa mộng mơ trên quê hương yêu dấu? năm mới mặc áo mới đi bên nhau để được em khen là diện ghê. Còn em áo dài trắng ngoài khoác áo lạnh màu thiên thanh, đã đẹp lại càng thêm đẹp, làm sao ai có thể hững hờ.

5- Bài Chòi trong ba ngày tết:
          Trước năm 1975, trong những dịp tết, người Phan Thiết hay tổ chức đánh bài chòi tại Xóm tỉnh (Phú Tài), Đức Nghĩa, Khu 1 Bình Hưng.. kéo dài suốt ba ngày đầu năm, có hát bội phụ hoạ. Địa điểm chơi bài thường là khu đất rộng, nằm trên đám ruộng khô hay con đường hẻm rộng như tại Bình Hưng, để tiện việc cất những chòi cao, có bậc thang lên xuống, bao quanh một sân khấu nhỏ trống trải. Bài chòi có hai bộ, một để tại sân khấu rút thăm hô thai, còn bộ kia thì chia đều cho các chòi con trong số 29 con bài.
           Bài chòi xuất phát từ Bình Định nhưng vào tới Bình Thuận thì cách chơi cũng biến chất. Tại Phan Thiết, nhà con mua vé rút thăm lấy ba con bài, rồi leo lên chòi cao có để một cái mõ gỗ dùng báo hiệu. Trên sân khấu, người hô thai mặc quần áo hát bội, biểu diển theo con bài được rút từ trong ống, với các bài bản có sẵn nói về tên của các con bài như nhất trò, nhì nghèo, ba bụng, tứ giống, năm dây.. Chòi nào có con bài trùng thì gỏ ba lần mõ báo hiệu và ai trúng đủ ba cặp thì thắng cuộc.. cứ thế tiếp tục chơi cho hết ba ngày tết rất vui vẽ. Trước năm 1975, người thắng ngoài tiền, còn được thưởng trầu rượu và một tràng pháo chuột, nên ai cũng muốn tham dự nhất là người xóm biển.
 
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Giêng 2017
MƯỜNG GIANG