=> Duyên Anh và Tuổi Ngọc.
Tại Sài Gòn trước 1975 có rất nhiều báo thiếu nhi, một vài tờ phát hành
rộng rãi và lâu dài phần đông do các nhà văn có tên tuổi phụ trách việc
biên tập, như Duyên Anh, Nhật Tiến,… Trong một dịp nói chuyện với các
thính giả, độc giả cuối năm 2015, người viết bài này đã thổ lộ là trong
văn nghiệp của mình, vốn là người “không có thời niên thiếu trong văn
chương,” đại ý là như thế. Trước sau chỉ còn tìm thấy… hai bài, mà bài
thứ hai chỉ mới được một độc giả gửi cho qua Internet cách đây vài ba
tháng! Đó là bài “Một ấu thời hà khắc.” Trang báo độc giả gửi cho có mục
“Ngày xưa còn bé,” và đoạn số 2 bài này xuất hiện trong mục ấy.
Nhìn trang bài, chỉ có một trang, tác giả đoán xem tên tờ báo này là
gì, mà không đoán ra, song nghĩ là báo của Duyên Anh, vì mang máng nhớ
bài viết sở dĩ có là vì Duyên Anh xin, và do không có nhuận bút, nên bài
chỉ dài có một trang. Mang máng nhớ tên báo của Duyên Anh là Tuổi Ngọc.
Nhớ như thế là bởi vì khoảng giữa thập niên ’60, có lẽ là năm 1965, hai
ông tướng đảo chánh Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính xuất bản nhật báo Công
Luận, Duyên Anh coi trang trong, có mời tôi viết một truyện dài từng kỳ,
Cuối Cùng Em Đã Đến, kéo dài mãi cho đến khi Nguyễn Thị Hoàng in thành
sách, dày tới ngót 600 trang.
Trong thời gian ấy Duyên Anh thường rủ tôi đi hớt tóc tại một tiệm
rất thời trang trên đường Gia Long, và vô số chuyện thời sự văn nghệ
chính trường đã được trao đổi. Sau tôi cũng giữ thêm một mục tạp luận
trên báo Công Luận, lấy tên là Nhận Đường, mà một hôm Mai Thảo hứa đưa
bài, phút chót không viết nổi, tôi phải viết thay, vẫn đề tên Mai Thảo
như đã quảng cáo từ trước. Những bài viết trên báo hàng ngày thường là
bỏ mất, không ai có thì giờ thu cắt lại, có làm, mà làm cho có mà thôi.
Bài “Một ấu thời hà khắc” viết cho báo của Duyên Anh, nửa thế kỷ thấy
lại, tôi cứ trầm ngâm, không biết nghĩ sao, vì tâm tình nửa thế kỷ trước
không thể nào là suy nghĩ bây giờ, nhưng vẫn là mình!
=> Một Ấu Thời Hà Khắc.
“Tôi phải nhiều can đảm lắm mới dám thú nhận rằng mãi đến năm tám
tuổi tôi mới bắt đầu học ABC. Lúc tôi cắp sách đến trường làng, bọn
trong lớp tỉnh khô, vì có đứa còn to đầu hơn tôi nữa. Nhưng ba năm sau
khi đặt chân lên Hà Nội, bước vào trường tiểu học Đồng Nhân trong khu
đền thờ Hai Bà, cái sự bẽ bàng mới đến với tôi, đến trong một đường
thẳng sỗ sàng, diễu cợt. Là đứa học trò lớn tuổi nhất, lù lù trên hàng
ghế cuối lớp, ngơ ngẩn và lẻ loi, lúng túng, quờ quạng trước một mặt bàn
thấp, nhỏ. Nhưng cũng may, nỗi bất hạnh và sự trễ tràng ấy đã khiến tôi
học hành khá chăm chỉ, và tập cho tôi được tính nhẫn nhục lạ lùng.
Trong những vụ xích mích xảy ra, trong những cuộc đánh nhau không tránh
khỏi, tôi luôn luôn bị coi là đứa nhút nhát, ngừng tay khi còn có thể
đấm vài quả nữa vào mặt, vào bụng đối thủ cũng là do tính nhịn nhục này.
Tôi biết là mình to xác, nếu đánh thẳng tay thì chúng càng ghét bỏ,
trêu chọc mình, cho nên tôi cứ lùi, cứ lùi, và chỉ đỡ gạt, để cuối cùng
bị coi là to xác mà non gan trong lớp. Một cái khác đỡ đòn cho tôi, giúp
tôi cứu vãn chút danh dự trước bạn học, là cái vốn hiểu biết về các chữ
khó. Cái này không có gì lạ: Tôi đã được dạy chữ Nho bốn năm trước khi
học chữ “ngoại bang.” Ông Nội tôi, cụ Tú tài Hán học Nguyễn Hữu Khắc là
người trong cả huyện năm ấy thi đỗ trong khoa thi áp chót của trường Nam
Định vào năm 1915. Cụ đã khai tâm tôi bằng Tam Tự Kinh (Kinh ba chữ),
“Nhân chi sơ Tính bản thiện Tính tương cận Tập tương viễn Cầu bất giáo
Tính nải thiên Giáo chỉ đạo Quí dĩ chuyên…” (Người ban đầu Tính vốn lành
Nết vốn gần Tục làm xa Nếu mất dạy Tính bèn đổi Dạy lấy đạo Quí chuyên
cần…).
Đó là những chữ đầu tiên tôi phải tập đọc, đọc thật to, tập viết,
viết cho ngang bằng xổ ngay, và học thuộc lòng vào khoảng từ khoảng giữa
bốn tuổi đến sáu tuổi. Học thuộc Tam Thiên Tự (Ba nghìn chữ) cũng thật
là vui. “Thiên trời Địa đất Cử cất Tồn còn Tử con Tôn cháu Lục sáu Tam
ba Gia nhà Quốc nước Tiền trước Hậu sau Ngưu trâu Mã ngựa Cự cựa Nha
răng Vô chăng Hữu có Khuyển chó Dương dê Quy về Tẩu chạy v.v…”
Nếu Thầy tôi không mất sớm có lẽ tôi không phải đâm đầu vào con đường
Nho mạt ấy mà học ra rả suốt ngày trên một tấm phản cứng như đá, làm
mỏi nhừ một tấm lưng rất tốn vải. Tôi đã không trở thành một Anh Khóa
giữa thế kỷ XX là nhờ một ông chú tôi sau khi đi Hà Nội về đã trở thành
một ông Nguyễn Trường Tộ nho nhỏ, bắt tôi bỏ bút lông gạt bỏ nghiên mực
tàu xé giấy bồi, sau khi cãi nhau với ông tôi một trận kịch liệt. Thế là
tôi sáu bảy tuổi không còn phải phết cậy (cậy: keo của một thứ cây) vào
giấy mà làm bìa sách, còng lưng đóng và khâu tập và mài mực hay gân cổ
thổi bếp than hồng đun nước pha trà khi ông Nội có khách nữa. Tôi được
học “Quốc ngữ là chữ nước ta, Con cái nhà đều phải học,” mặc dù ông Nội
tôi gọi nó là “chữ của quân bán nước.”..,điều thứ hai mà thời ấu thơ tôi
phải khuất phục, cũng vẫn do ông tôi, là sự sửa sang sắc đẹp. Ít nhất
cũng có vài lần tôi bị cụ chửi mắng tàn tệ liên miên dai dẳng chỉ vì đã
“bị bắt quả tang” đang đứng trước gương. Con trai mà soi gương là đồ vứt
đi, đồ vô tích sự, hay là một chữ gì đó còn tệ hơn thế nữa.
Tắm xong, thường là nhảy xuống cái ao trước sân, tóc phải vuốt ngược
về phía sau, gần như không cần đến lược nữa. Cô tôi, một phụ nữ muộn
chồng sống gần cha, nghiện thuốc lào vì suốt ngày quanh quẩn bên ông tôi
– có lần đã chải cho tôi một đường ngôi lệch trên đầu – và sau đó hai
cô cháu tôi mất vui suốt mấy ngày vì sự canh tân này, vì tiếng chửi rủa
đay nghiến cực kỳ hà khắc và tàn nhẫn của một lão ông lỡ thời. Cho đến
khi học đệ lục Chu Văn An Hà Nội, tôi vẫn có một cái đầu mái tranh, mớ
tóc rủ trước trán cắt vạt đi như góc một tờ giấy. Tuy thế khi ở với chú
tôi sau đó ở Hà Nội, mái tóc tôi được săn sóc kỹ càng, láng bóng và dài
mượt, có thể vắt lại phía sau được, giống như nhiều chàng hồi ấy, tối
ngày thấy hình ảnh tài tử Robert Taylor và cô đào Elizabeth Tayor vẽ lớn
trên phông vải trước các rạp xi nê như Ciro’s hay cái rạp gì đó ở Chợ
Hôm, hình như Đại Nam.
Tôi nhớ mỗi khi đàn chó vừa sủa vang vừa chạy xô ra cổng, cùng với
mấy con ngan, con ngỗng giữ nhà, là y như đàn bà con gái trong nhà, mẹ
tôi, thím tôi, cô tôi vội vã lẩn vào sau cánh cửa. Nhà có khách, khách
đàn ông. Suốt thời gian có khách chỉ có cô tôi – chưa chồng – được xuất
hiện đâu đó, thấp thoáng. Những phụ nữ khác nếu có việc gì cần làm, đều
phải đi phía xa xa, đi vòng dưới sân phía trước hay vòng quanh nhà phía
sau – ngôi nhà năm gian – thêm một nhà ngang. Phụ nữ muốn đi từ đầu nhà
tới đầu kia, dù là những lúc thường, cũng không bao giờ được đi trên
thềm gạch. Phải xuống sân, đi ra mé sân, rồi mới băng ngang nếu không
muốn đi phía sau. Những lúc ấy tôi thấy mình đi tới ngang nhiên, nghĩ
cũng oai oai. Phải cho tới khi ra đời, tôi mới quên dần đi một ấu thời
hà khắc.
Blog Saigon Xưa
No comments:
Post a Comment