Tác
giả Ấu Oanh là Phu nhân của Ca nhạc sĩ Duy Trác. Hồi ký này bà viết để
khóc một người Bạn - Phu nhân của nhà văn Dương Hùng Cường, cũng như để
thuật lại những gì đã xảy đến cho gia đình tác giả và gia đình nhà văn
Dương Hùng Cường sau cuộc "đổi đời" gây ra bởi Ngày Quốc Hận 30-4-1975.
(Lê Thy giới thiệu)
KHÓC BẠN
Bác Dương thôi đã thôi rồi.
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Từ
thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ Khóc Bạn của
cụ Tam nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê.
Bài thơ trở thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm
sau lại bật ra như những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn
thân : Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế
chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi, còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa
tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.
Ngày
còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết
nhau nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường Sư Phạm, vô tình
làm sao, hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở
trường thi, lại ngồi cạnh nhau thì không quen cũng thành quen huống chi
chúng tôi cùng là dân TV lại biết nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi
mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại bài nhau nên kết quả là hai
đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi và Oanh trở thành
bạn thân từ đấy.
Oanh
không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn,
lúc nào cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp.Nhưng điều
mà bạn bè nhớ nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với
mọi người.
Đời
học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có
biết bao niềm vui nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy
bạn bè có người yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han cuả Oanh chợt
tối lại, vương một chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu, nhiều
lần sau nữa, chẳng đặng đừng, Oanh cười mỉm chi đáp "Nhớ bồ" "Thế bồ đâu
rồi " "Bồ thuộc người khác rồi", rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay "Thôi
khỉ ạ, đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi".
Thời
gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi
và ráo riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi
hóc búa, tôi hỏi mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc
sưu tầm các bài dạy mẫu, còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng.
Oanh đang hí hoáy viết nên bảo "Mở cặp ra, ngăn bên trái đó". Tôi mở
cặp lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên
béng ngay bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi bao và liếc thật
nhanh vài giòng. "Ồ, thư tình", tôi thầm kêu trong đầu. Vừa lúc đó Oanh
quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, soài người giựt lại
lá thư, miệng la bài hải ‘Ố́í, ối, trả đây, trả đây". Lá thư không dài
và cũng không có những lời lẽ yêu đương hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay
đó là thư tình, thư tình cuả một nhà văn. Ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ cuả
một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ tình yêu. Tôi mừng
thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu bĩnh… Từ
đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.
Trong
khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khoẻ
tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn
được. Chỉ còn cách bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon
trớn bỗng đâm xầm vào một đống đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất
thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa chúng tôi ra hai nơi. Lúc đó tôi
đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng, Oanh bật dậy lao
ngay về phía tôi mà không thấy rằng 1 đầu gối quần bị rách để lộ vết
thương rướm máu và 1 bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh
lính quýnh ôm nâng tôi dậy, mặt tái mét, miệng líu lại "Oanh, Oanh có
sao không ? Có đau bụng không ?" Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai
nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn
nên vội trấn an "Mình không sao, đừng lo. Thôi mau nhấc xe dậy, vào ngay
bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh".
Ra
trường, tôi về dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hoà. Như một xui
khiến của số mệnh, người yêu của Oanh, Nhà văn Dương Hùng Cường, còn có
bút hiệu là Dê Húc Càn đồng thời là một Quân nhân cũng đang làm việc tại
phi trường Biên Hoà. Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc
tốt đẹp là cái đám cưới vào năm 1964. Năm sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu
lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7 cô Công chúa trong
vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài gòn thì Oanh cũng
được thuyên chuyển về dạy học taị trường Hồng Bàng (Sau năm 1975 thì dạy
tại trường Hùng Vương, cùng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi
nhau.
Vào
khoảng năm 74 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2
trung tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn
thời giờ dành cho các con nữa thì Oanh tâm sự : "Ông Cường giành phần
chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình", rồi Oanh xuống
giọng "Mình phải dạy thêm lấy tiền cho ông Cường in truyện". Nói là chăm
sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo
cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi thông cảm với Oanh vì thời
gian đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo
thêm cũng chỉ đủ chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi.
Muốn in sách truyện, Oanh phải cật lực giúp chồng. Thế là bao nhiêu tiền
bạc dành dụm được đều đổ dồn vào việc cho ra đời đứa con tinh thần
"Vĩnh biệt Phượng". Thương thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối
ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như một cơn cuồng phong ập đến, xoá tan
hết bao ước mơ, bao xây đắp cuả cả một miền Nam thân yêu trong đó có 2
gia đình chúng tôi. Ông xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở
thành tù nhân của chế độ mới và 2 gia đình chúng tôi trở thành những nạn
nhân như trăm ngàn gia đình Quân nhân công chức chế độ cũ, luôn luôn bị
soi mói, rình rập, theo dõi, lúc nào cũng sống trong phập phồng, lo
lắng, sợ sệt… Với đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào
trường lớp để khỏi phải bị đuổi đi vùng Kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng
chia nhau cái ngậm ngùi của số phận. Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là
hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu lo. Chúng tôi càng gắn bó với
nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việc
Thoạt
đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương của chế độ mới là thiêu hủy hết
số sách báo của miền Nam được gọi là văn hoá đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy.
Chúng tôi lại thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục xoát
thường xuyên hơn. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình. Để được
yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết
số "tàn dư Mỹ ngụy" trong nhà, nhờ người quen dẫn giắt lên chợ sách
Nguyễn Huy Thiệp bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu
quý từ từ đội nón ra đi, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn "Chạy trốn
Tự do" mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi :" Tại
sao laị dịch cuốn sách mang cái tên oan nghiệt này ?" Cuốn Vĩnh Biệt
Phượng cuả anh Dương Hùng Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên 1
tấm ni lông trải dưới mặt đường con phố NHT. Tôi và Oanh thủ 2 cái nón
rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen kẻ thuộc hay bạn bè gần xa của
chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi thời thế có ai học đến
chữ ngờ !
Một
hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái cuả
Oanh đạp xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vừa phải vào nhà thương. Khi đó
cháu Dao Tiên mới non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm
sau nữa cũng không thấy Oanh lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong Bệnh
viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở lại, cặp mắt còn sưng, oà khóc,
nói "Oanh ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng , vì
đói ăn đó Oanh ạ ! "
"
Nghề " bán sách cuả chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời
cuộc mà tự diệt. Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ
Lớn bán nhưng cũng chẳng được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét.
Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên quay ra may quần áo con nít đem giao các
chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo cho các Căn tin trường học. Cứ
thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.
Ngoài
lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời
biền biệt không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng.
Dò la, thăm hỏi chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận
ban Quân quản Thành phố để hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi
khác :" Cứ yên tâm chờ đợi ". Cuối cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về
sau hơn 2 năm kể từ ngày các Sĩ quan cuả chế độ cũ nghe lời đường mật
"Chuẩn bị đồ ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình
diện". Ông xã tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long
Khánh. Cứ 3 tháng chúng tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc
men 1 lần. Hai đứa lại có dịp chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu,
thuốc nào cần nhất v.v... để mang lên trại.
Tôi
còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường
ghé tôi, có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà
Oanh cưu mang từ sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau
chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà
không có phương cách giải quyết. Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có
mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng giờ mà chẳng nói với nhau một
tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi đang chia nhau nỗi sầu khổ
âm thầm.
Một
hôm, khoảng sau Tết năm 1978 Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó
vẻ mặt Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi :
- Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy ?
Oanh vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn 1 ly nước, đến ngồi gần bên ân cần :
- Có việc gì hả Oanh ?
Sau một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy :
- Ta nói cái này, đừng giật mình nhé…Mình có bầu.
Tôi giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.
- Oanh nói gì ? Ai có bầu ?
- Mình.
- Hả ?
- Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám Bác sĩ về xong.
Tôi trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê khai :
- Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm…
Tôi thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp :
- Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.
Tôi ngỡ ngàng hỏi lại :
- Phá ? Sao lại phá ?
- Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu có ai hiểu…
- Thì nói ra cho mọi người biết.
- Ai tin ? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.
Tôi
chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban
Giám hiệu đều là người Cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro
trát trấu lên đầu lên cổ vợ con " thằng ngụy". Tôi thở dài :
- Ừ, để mình tính xem.
Nói
vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối
đến, trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh
muốn tôi chia sẻ. Mẹ tôi bảo :
- Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.
- Mẹ hỏi gì hả mẹ ?
- Có phải Oanh toàn con gái không ?
- Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.
- Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.
- Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.
- Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con của mình thì sẽ mang tội con ạ.
Mẹ
tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh
trai hay gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không
thuộc (Vì mình có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào 1 cuốn
sổ để dành nhưng qua hết đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không
cánh mà bay.
Dẫu
rằng cả Oanh và anh Cường đều không mang tư tưởng "Nhất nam viết hữu
thập nữ viết vô" nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ cả trai lẫn
gái.
Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.
Thông
thường, cứ mỗi đầu tháng, các Giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn
trường để kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của Phòng
hoặc Sở giáo dục. Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo 1
công việc gì đó rồi bôi mặt cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp
mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1
đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa. Việc đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy
bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm nguy. Cũng may mắn cho Oanh,
chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ thì anh Cường được về.
Một hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi han câu nào, anh đã vào đề liền :
- Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.
- Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng thôi
Không trả lời câu nói đùa của tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:
- Oanh gửi chị cái này.
Tôi vội vàng mở mảnh giấy đọc "Oanh ơi, cứu bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền Bệnh viện nhé".
Tôi
vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp
xe lại ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giầu có gì nhưng chị
tương đối khá giả hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị
là con kiến biết lo xa, ki cóp mua vàng để dành,( trong khi tôi lại là
con ve, kêu ra rả hết muà Hè, chỉ biết rong chơi ca hát , cho nên khi
Đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt nên bạn bè khi cơ nhỡ chị
đều sẵn sàng san sẻ.
Trao
cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ
cho con song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy
cách tính của mẹ tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng
người mừng nhất ắt hẳn là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là
Phụng Hoàng, Dương Phụng Hoàng, con chim quí.
Khoảng
3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam
Tiệp đang cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn Bút Quốc Tế can
thiệp và giúp đỡ cho một số các gia đình Văn nghệ sĩ Miền Nam còn kẹt
lại quê nhà, đang gặp rất nhiều khó khăn cả về 2 mặt vật chất lẫn tinh
thần. Ít lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1 đến 3
thùng thuốc tây gửi từ Pháp về (Nhưng có lẽ đó là do chính tiền cuả anh
TTTiệp, chứ không phải của VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có
cả 1,2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi
sang. Những thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi
qua những cơn vô cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những
thùng quà này lại đưa chồng tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và
một số các Văn nghệ sĩ khác như các nhà văn Dzoãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải
Thuỷ, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần Ngọc Tự… vào tù lần thứ
hai. Bọn Công an Thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa
đặt và vu cáo có tên Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, hòng bôi bẩn và hạ giá
nhóm Văn nghệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật nặng nề.
Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hoà, số còn lại tại trại giam
Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một
địa chỉ để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những
hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
Do
từ việc bỏ bánh kẹo cho các Căn-tin trường học, Oanh lần hồi biết được
cách thức để đấu thầu toàn bộ cả căn-tin của mỗi trường. Oanh rủ tôi làm
công việc này. Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường
Tàu trong Chợ Lớn. Sau này rành rẽ rồi thì mỗi đứa làm ở mỗi trường khác
nhau.
Cứ
vào cuối mỗi năm học, Giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ
lý lịch đã khai từ những ngày đổi đời 30/4/75. Năm 1980, con gái thứ hai
của tôi đi vượt biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần
2 tôi cũng không khai. Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên
tôi vẫn được yên thân. Bất ngờ, vào đầu năm 87, Hiệu trưởng mời tôi lên
nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình hình gia đình, chồng con, công việc
v.v... và cuối cùng bà hỏi tôi có up to date lý lịch đầy đủ cho mỗi năm
không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn. Tuần lễ sau tôi xin nghỉ
bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc. Ở thời điểm
này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã
chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia
đình đói rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về
thành phố, nằm la liệt tại các công viên, chợ, nhà thờ, chùa…chính quyền
không thể xua đuổi vì họ không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi
không còn lo sợ vì phải lên rừng lập nghiệp. Lại nữa tống khứ đi được
một con vợ "ngụy", cũng nhẹ gánh lo cho Ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà
không hỏi han gì cả.
Thời
gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các Sĩ quan QLVNCH
bị tù cải tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác
thực nào nhưng chúng tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống
và tiếp tục chịu đựng.
Một
ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà
thì cô cháu gái cuả Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi : "Cô
ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô"
Khi
tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào :
"Tôi không sống một mình đâu, Trời ơi là trời". "Anh Cường ơi, em không
sống một mình đâu" !! Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót
từng cơn và nước mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi
kêu gào đã quá mệt, tôi đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con
Oanh : " Để yên cho mẹ nghỉ một chút "
Hàng xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa.
Bình
tâm trở lại, tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể : " Sáng nay cháu ở
nhà, Công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường, anh
ấy nhắn bảo mẹ ra Phường gấp có giấy báo của bố". Khi cháu ra trường bảo
cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo " chắc bố được thả…ồ,
hay là…Mỹ đón". Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn bị đồ Vest cho Bố. Đến khi
hai mẹ con ra đến Phường nhận giấy mới vỡ lẽ…Họ bảo sáng ra đến giờ tập
họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố cháu trả
lời, họ mở khoá ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.
Oanh
được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi
được phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2
người mang áo quan vào lấy xác tại khám Chí Hoà mà thôi. Hôm sau tôi đi
cùng với Oanh nhưng phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với
các con nhỏ cuả Oanh. Số bạn bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều
không được tập trung một nơi mà phải phân tán rải rác dọc theo con đường
Hoà Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường rồi mới được tháp tùng
theo. Ôi, quân Cộng sản sao mà độc ác. Người sống chúng không tha đã
đành, người chết chúng cũng không cho chôn cất tử tế…Huyệt mộ đã lấp lại
rồi nhưng Oanh vẫn đứng trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu ? Có lẽ
nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi chợt nhớ đến bài thơ "Đi nhận xác chồng"
của Lê Thị Ý :
…
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu
Thật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.
Vết
thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt
ruột đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một
chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối
cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé của con : chuyến tàu chở cháu Thi đã
không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người
thương yêu nhất đời mình lên Chùa…
Rồi
giòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương,
dấu chặt nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những
cam go của cuộc sống, với tương lai cuả bầy con còn lại. Thời gian sau
này chúng tôi ít gặp nhau hơn vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công
việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn
theo đuổi công việc dạy học.
Mùa
Hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh.
Biết mình không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác
đến năn nỉ, tôi vẫn gan cùng mình không chịu làm hoà. Gần 2 tháng trời
chúng tôi không gặp nhau. Một buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn
tù của ông xã tôi, hốt hoảng đến báo tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào
Bệnh viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình như không được ổn. Tôi tức
tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và thật hồi hộp.
Oanh
nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn…Tôi bật lên khóc nức
nở, nắm lấy tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào
lên " Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên Oanh đây, mình không
còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi "!!! Tôi đưa tay bứt mớ tóc
trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự thật
không…Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là
con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế…Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ
họng tôi vẫn bật lên tiếng gọi " Oanh ơi. Oanh ơi. Dậy đi, mình thương
Oanh lắm, có nghe mình nói không ?"
Tôi
ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều
muốn vuột ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt…..Lâu lắm, chợt nghe
tiếng bà dì Oanh nói : "Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh nhé. Người bây
giờ còn mềm, thay dễ ".
Tôi
nâng đầu Oanh dậy tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào
tóc. Đến lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình
như vỡ xương hông thì phải. Ôi, đau đớn biết bao !
Mãi
sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó, một cậu nhỏ mới
quen đến chở Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều,
trên đường về, đã gần đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để
vào ngõ thì bị một xe hơi do người tài xế say rượu đâm phải.
Oanh là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người.
Oanh
mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, của vợ chồng
Oanh sinh bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng
như một định luật bù trừ, hai con lớn cuả Oanh tiếp tục công việc của
mẹ, không những đã duy trì được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu
còn dìu giắt nhau học hành tới nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có
linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day dứt lúc ra đi đã quay trở lại
thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên trong cuộc sống.
Hôm
nay ngồi viết những giòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của
bạn tôi, Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ
người khác nhưng số phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang
thương, oan trái. Khi sống, tâm tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn
mang nặng những vết thương không cơ hàn gắn. Đến lúc lià đời, lại ra đi
trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn đau, với cõi lòng đứt đoạn
vì bầy con thơ dại.
Oanh
ơi, những giòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng
mình thắp lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng
chung bước trải dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.
Ngủ đi Oanh, hỡi bạn hiền,
Ngủ cho say nhé, triền miên giấc nồng.
Chuông chùa vọng giữa thinh không.
Đưa hồn an lạc về vùng tịnh yên.
Ấu Oanh
No comments:
Post a Comment