Kính chuyển :
*Xin cám ơn tác giả Nguyễn Gia Kiểng.
*Đây quả là một bài viết thật có giá trị với những phân tích và nhận xét
của ông quả thật là quá chính xác. Điều mà không ít người trong chúng
có thể nhận ra: Đảng CS Hànội thì cố ôm chặt lấy Tàu, không muốn buông
Tàu ra để ngã theo Mỹ. Nhưng ngược lại, phía
Tàu thì ngược lại, bây giờ họ lại muốn phủi tay, không còn ham muốn
chiếm lấy VN nữa!
*Đó quả là một điều bất ngờ! Và điều đó cũng có thể giải thích lý do nào Hànội loay hoay như gà mắc đẻ, chạy đông chạy tây…
GÓP GIÓ
KHI THIÊN TRIỀU SỤP ĐỔ VÀ LỊCH SỬ SANG TRANG
“…Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của Gorbachev
cuối thập niên 1980.. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những thay đổi
cần thiết, Tập Cận Bình trái lại từ chối làm một việc phải làm. Hậu quả
chắc chắn sẽ bi đát hơn…”
Khi nhận định về Trung Quốc các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Quốc là một thế giới hay một đế quốc – hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Quốc- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.
Khi nhận định về Trung Quốc các chuyên gia thường quên hai điều rất cơ bản. Một là Trung Quốc là một thế giới hay một đế quốc – hay một thiên hạ theo cách nói của người Trung Quốc- chứ không phải là một nước, do đó không thể lý luận và dự đoán về nó như người ta thường làm với một quốc gia. Hai là Trung Quốc vốn sẵn có một văn hóa nghi lễ lấy hình thức để tạo ấn tượng về nội dung, có khi để che giấu nội dung. Văn hóa này đã được tăng lên nhiều lần dưới chủ nghĩa cộng sản mà một đặc tính nền tảng là che đậy sự thực.
Cho đến nay thực trạng Trung Quốc đã được
che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng của một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
ngoạn mục khiến nhiều người quên rằng kinh tế không phải là vấn đề
nghiêm trọng nhất của Trung Quốc.
Kinh tế Trung Quốc hết thuốc chữa
Hãy nói ngay về lớp vải điều đó. Trong gần ba thập niên Trung Quốc đã
gây kinh ngạc cho thế giới vì tỷ lệ tăng trưởng liên tục trên 10%. Tỷ lệ
này được hạ xuống 8%, rồi 7% trong những năm gần đây. Các con số chính
thức của Trung Quốc dĩ nhiên là không chính
xác nhưng điều có thể thấy được là hàng hóa Trung Quốc đã tràn ngập các
thị trường thế giới, các công trình xây dựng hoành tráng và các cao ốc
đồ sộ mọc lên khắp nơi, tư bản Trung Quốc đầu tư vào mọi quốc gia, từ
Châu Phi đến Châu Âu, Châu Mỹ qua Việt Nam,
Lào và Campuchia. Ảnh hưởng Trung Quốc tỏa rộng. Có những dự đoán theo
đó Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ trong một tương lai gần.
Nhưng rồi bắt đầu có những ngờ vực. Năm
2001 có cuốn sách The Coming Collapse of China (Sự sụp đổ sắp tới của
Trung Quốc) gây được tiếng vang lớn. Bạn bè đã tóm lược cho tôi cuốn
sách này ; nó sai vì phạm một trong hai sai lầm cơ bản đã được nói ở đầu
bài này nghĩa là lý luận về Trung Quốc như một quốc gia. Dần dần quan
điểm của các quan sát viên về Trung Quốc thay đổi hẳn. Mới đầu người ta
tự hỏi liệu Trung Quốc có thể lâm vào khủng hoảng không ? Rồi Trung Quốc
sẽ lâm vào khủng hoảng lúc nào ? Và bây giờ
câu hỏi đặt ra là Trung Quốc sẽ còn che đậy được tình trạng suy thoái
bao lâu nữa và lúc đó tương lai Trung Quốc sẽ ra sao ?
Tất cả những đèn báo động đều đã đỏ rực.
Nợ công của Trung Quốc được ước lượng bởi mọi định chế thẩm định (rating
agencies) là ở mức 300% GDP, nghĩa là cao một cách nghiêm trọng. Nhưng
con số này có thể chỉ là một phần của sự thực bởi vì không bao gồm
những khoản nợ không chính thức hoặc không hợp pháp đầy rẫy trong xã
hội Trung Quốc. Thí dụ như tình trạng tuyệt đại đa số các công ty nhà
nước lớn mượn tiền của ngân hàng trung ương với lãi suất ưu đãi rồi cho
các công ty nhỏ hoặc tư nhân vay lại với lãi
suất cao, hay phần lớn các chính quyền địa phương không khai đúng số
nợ.
Kinh tế Trung Quốc dựa trên xuất khẩu
nhưng xuất khẩu đã giảm hẳn từ sau cuộc khủng hoảng 2008. Trong năm 2014
vừa qua, ngoại thương Trung Quốc đã sụt 11% (xuất khẩu giảm 3,3%, nhập
khẩu giảm 22%), dầu vậy tỷ lệ tăng trưởng chính thức vẫn là 7,3%. Nhưng
làm sao một nền kinh tế đặt nền tảng trên xuất khẩu lại có thể tăng
trưởng 7,3 % trong khi ngoại thương suy sụp ?
Công ty tham vấn Lombard Street Research
của Anh, vẫn sử dụng những dữ kiện của chính quyền Trung Quốc nhưng tính
lại một cách nghiêm chỉnh hơn, cho biết tỷ lệ tăng trưởng của Trung
Quốc năm 2014 chỉ là 1,7%. Tuy vậy ngay cả tỷ lệ tăng trưởng khiêm tốn
này cũng không thể có vì dựa trên những số liệu sai, thí dụ như các
công ty sản xuất rồi bỏ vào kho vì không bán được hàng nhưng vẫn kể vào
sản xuất, và khi sản phẩm đã hư hỏng cũng không khai v.v.
Một chỉ số đo lường lòng tin vào một nền kinh tế là chỉ số chứng khoán.
Cuối năm 2007 chỉ số chứng khoán SSE của Trung Quốc lên tới cao điểm
6.000. Sau đó là cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008 làm tất cả các thị
trường chứng khoán trên thế giới đều suy sụp. Ngày
nay hầu như tất cả các chỉ số chứng khoán đều đã phục hồi được mức độ
của năm 2007, các chỉ số của Mỹ, Đức và Nhật còn vượt xa mức 2007, nhưng
chỉ số SSE của Trung Quốc vẫn chỉ quanh quẩn ở con số 4.000..
Lòng tin vào tương lai của kinh tế Trung
Quốc còn thể hiện qua một con số khác. Kết quả của một cuộc thăm dò của
Hurun Research Institute (Thượng Hải) và vừa được học giả David
Shambaugh nhắc lại trên Wall Street Journal cho thấy 64% các đại gia
Trung
Quốc đã hoặc đang chuẩn bị di chuyển ra nước ngoài. Tư bản Trung Quốc
đang tháo chạy. Một hiện tượng khác mà Shambaugh cho biết là chính quyền
Mỹ đang theo dõi sự kiện rất nhiều phụ nữ Trung Quốc giầu có sang Mỹ
sinh đẻ để con có quốc tịch Mỹ. Nếu tương lai
Trung Quốc tươi sáng tại sao những người được ưu đãi nhất lại bỏ đi ?
Trong mọi tiếp xúc với các chuyên gia
nước ngoài các doanh nhân Trung Quốc không còn giấu giếm nữa. Họ nói
thẳng là họ đang sản xuất với mức lời rất thấp hoặc lỗ nhưng vẫn phải
sản xuất theo kế hoạch.
Nhưng kế hoạch nào ? Từ năm 2008 trong
khi mọi quốc gia cố gắng vùng vẫy để ra khỏi cuộc khủng hoảng thì Trung
Quốc đã có một chọn lựa khác hẳn. Đó là coi như không có khủng hoảng và
bơm tiền ồ ạt vào sinh hoạt kinh tế, đẩy mạnh chi phí công cộng và ngành
xây dựng để giữ nguyên mức độ tăng trưởng, với hậu quả là số nợ công
tăng gấp bốn lần, các kho hàng của các công ty đầy ứ và rất nhiều thành
phố ma xuất hiện tại rất nhiều nơi. Khủng hoảng càng che giấu lâu bao
nhiêu thì càng trầm trọng thêm bấy nhiêu và bây
giờ nó không còn giải pháp.
Năm 2013 khi mới lên cầm quyền, Tập Cận
Bình ra lệnh giới hạn khối lượng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất và kiểm
soát tín dụng. Ông đã phải nhanh chóng từ bỏ biện pháp này -đúng trên
nguyên tắc- trước nguy cơ sụp đổ tức khắc ; không những thế, chính quyền
Bắc Kinh còn phải bơm tiền nhiều hơn nữa cho các ngân hàng và công ty..
Sự kiện này chứng tỏ kinh tế Trung Quốc không có thuốc chữa, sự sụp đổ
chỉ còn là một vấn đề thời gian. Thời gian đó có thể rất gần vì ngay cả
biện pháp bơm tiền cũng không còn hiệu quả
nhất thời của nó nữa. Năm 2013 nhiều công ty muốn vay tiền mà không
được, hiện nay đại đa số các công ty từ chối vay vì không biết dùng tiền
để làm gì.
Một sự kiện khác cũng chứng tỏ kinh tế
Trung Quốc không cứu vãn được. Giải pháp tự nhiên khi mô hình hướng
ngoại không còn theo đuổi được nữa là tăng cường thị trường nội địa. Đó
là điều Trung Quốc đã làm nhưng đã chỉ khiến kinh tế Trung Quốc nguy
ngập
hơn. Từ năm 2010, Trung Quốc đã liên tục tăng lương công nhân 10% mỗi
năm với hy vọng là họ sẽ mua sắm nhiều hơn, nhưng mức tiêu thụ nội địa
không hề gia tăng vì người công nhân Trung Quốc chỉ dùng khoản lợi tức
mới có để tiết kiệm, phòng hờ khi đau ốm. Tuy
vậy biện pháp tăng lương công nhân này đã có tác dụng làm tăng giá
thành và khiến hàng hóa Trung Quốc khó bán trên các thị trường thế giới.
Sự sút giảm của xuất khẩu cũng do nguyên nhân này. Trung Quốc hiện đã
mất gần hết các thị trường tại Châu Âu..
Chừng nào kinh tế Trung Quốc sẽ thực sự
sụp đổ ? Câu trả lời là : khi chính quyền Bắc Kinh thú nhận. Nhưng họ có
sẽ thú nhận không ? Hiện nay niềm tin rằng kinh tế Trung Quốc “có sụp
cũng còn lâu” chủ yếu là ở chỗ Trung Quốc vẫn còn khoảng 2.000 tỷ USD
công khố phiếu của Mỹ và 1.000 tỷ Euros công khố phiếu Châu Âu. Mặc dù
số tiền này chẳng là bao so với số nợ công của Trung Quốc -ít nhất
30.000 tỷ USD- nhưng nó đem lại ảo tưởng là Trung Quốc vẫn còn giầu có
vì vẫn còn tiền cho Mỹ và Châu Âu vay. Bắc Kinh
sẽ không đụng tới những số tiền này. Có nhiều triển vọng là họ sẽ tiếp
tục như hiện nay cho đến khi thực trạng suy sụp trở thành hiển nhiên đối
với mọi người.
Đất nước Trung Quốc đang bị hủy diệt
Nhưng kinh tế suy thoái không phải mối
nguy lớn nhất của Trung Quốc. Mối nguy lớn nhất là môi trường. Không khí
tại các tỉnh phía Bắc ô nhiễm tới mức không còn thở được nữa ; nước vừa
rất thiếu vừa nhiễm độc.
Một nghiên cứu phối hợp của bốn trường
đại học MIT (Mỹ), Avraham Ebeinstein (Do Thái), Bắc Kinh (Trung Quốc) và
Thanh Hoa (Trung Quốc) công bố tháng 7-2013 tiết lộ một sự kiện kinh
khủng : tuổi thọ trung bình của khối 500 triệu người dân các tỉnh phía
Bắc đã giảm 5 năm rưỡi trong thập niên 1990 chủ yếu vì môi trường ô
nhiễm. Mùa hè 2007 trên chuyến bay từ Tây An tới Côn Minh tôi đọc trên
báo China Daily, tờ báo tiếng Anh của chính quyền Trung Quốc, một nghiên
cứu theo đó gần một nửa số sông của Trung Quốc
đã hết nước.
Tháng 3/2013, một nghiên cứu công phu -từ
năm 2010 đến năm 2012- của Bộ Thủy Nguồn và Viện Quốc Gia Thống Kê của
chính quyền Bắc Kinh đưa ra những con số chính xác một cách đáng sợ :
Trung Quốc chỉ còn 22.909 con sông, trên 28.000 con sông đã biến mất.
Mỗi con sông còn lại phải đem nước cho một diện tích khoảng 100 km
vuông. Như vậy có nghĩa là từ 2007 đến 2012 tình trạng thiếu nước đã xấu
đi nhiều thay vì được cải thiện. Nghiên cứu này cũng cho thấy có 400
thành phố hiện chỉ dùng nước bơm từ lòng đất lên.
Kết luận của nghiên cứu này là thay vì gia tăng cung cấp nước từ nay
chính sách quốc gia phải chuyển sang khuyến khích dân chúng tiết kiệm
nước.
Tình trạng xuống cấp nguy ngập của môi
trường chỉ một phần rất nhỏ do thiên nhiên, phần rất lớn là do chính
sách tăng trưởng kinh tế hoang dại bất chấp môi trường. Cần lưu ý là bảo
vệ thiên nhiên không phải là ưu tư của văn hóa Trung Hoa và Việt Nam
truyền
thống, trái lại người ta ca tụng những anh hùng có chí lớn “sẻ núi lấp
sông”. Nó cũng hoàn toàn vắng mặt trong chủ nghĩa cộng sản.
Vài năm trước tôi đọc một bài phóng sự
trên báo Le Monde nói về một con sông có cái tên ngộ nghĩnh là Nộ Giang,
nghĩa là dòng sông giận dữ, chảy từ Trung Quốc sang Myanmar. Lý do
khiến người ta đặt tên như vậy là vì nước sông chảy rất mạnh. Nhưng ngày
nay con sông này còn có một lý do chính đáng khác để nổi giận : nó trở
thành nơi đổ rác chính thức của các thị xã chung quanh. Chính quyền địa
phương xây rất nhiều bệ bê tông để các xe rác của các thị xã có thể đổ
rác xuống sông một cách an toàn. Mỗi ngày
hàng trăm tấn rác đủ loại được dòng nước cuốn sang Myanmar và trở thành
một vấn đề của Myanmar.
Năm 2007 tại Bắc Kinh tôi không nhìn thấy mặt trời dù biết nó ở ngay
trên đầu mình vì đang giữa trưa và trời rất nóng. Không khí đục ngầu vì
khói từ các nhà máy không xử lý khí thải. Tôi hỏi anh hướng dẫn viên từ
bao lâu rồi anh không còn nhìn thấy mặt trời
nữa. Anh ta không nhớ.
Bầu trời Hoa Bắc
Năm 2000 lượng nước trung bình của mỗi người Trung Quốc chỉ bằng 15% mức
trung bình thế giới. Bây giờ tình trạng còn bi đát hơn nhiều. Tại các
tỉnh phía Tây trước đây phải đào sâu xuống 30m mới tìm được nguồn nước,
bây giờ phải đào xuống 100m, mặt đất cứng
như bê tông. Đó là hậu quả của việc trồng bông để xuất khẩu quần jean.
Một đất nước trước hết là đất và nước, khi đất đã cằn cỗi, không khí và
nước đã ô nhiễm đến nỗi không thở được và uống được thì cũng chẳng còn
gì để nói. Đất nước Trung Quốc đang bị hủy
diệt. Đó là lý do chính khiến rất nhiều người muốn rời Trung Quốc bằng
mọi giá. Họ sợ chết.
Một chế độ tuyệt vọng
Mối nguy nghiêm trọng thứ hai, cũng
nghiêm trọng hơn hẳn sự suy thoái của kinh tế, là bế tắc chính trị. Các
quan sát viên theo dõi tình hình Trung Quốc đều đồng ý rằng đàng sau
chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình là cố gắng tập trung quyền
hành
về trung ương và về tay ông.
Tham nhũng chỉ là lý cớ. Chính Tập Cận
Bình cũng tham nhũng, nếu không làm sao ông có thể có một tài sản trị
giá trên 200 triệu USD ? Không khác gì thủ tướng Ôn Gia Bảo trước đây tỏ
ra rất quan tâm đến dân nghèo để rồi người ta phát giác ra rằng ông có
hơn 2 tỷ USD. Các phe đảng của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Bạc Hy Lai,
Chu Vĩnh Khang chắc chắn không khoanh tay chờ bị thanh toán. Chủ nghĩa
Mác-Lenin đã bị lố bịch hóa và không thể là xi măng gắn bó 85 triệu đảng
viên cộng sản với nhau nữa, chỉ còn lại
sự tranh giành quyền lực và quyền lợi.
Các tỉnh cũng không thể chịu đựng mãi ách
thống trị của trục Bắc Kinh – Thượng Hải và sự chênh lệch giữa các
vùng. Chưa kể là với sự sút giảm bi thảm của nguồn nước một cuộc chiến
tranh giành nước tương tự như ở Trung Đông có thể diễn ra ; trên thực tế
đã có xung đột giữa các tỉnh, thậm chí giữa các huyện trong cùng một
tỉnh, để tranh giành những con sông vừa cạn vừa ô nhiễm.
Cần nhắc lại để nhấn mạnh rằng, Trung
Quốc là một thiên hạ chứ không phải là một nước, lòng yêu nước đối với
một người Trung Quốc chủ yếu là một tình cảm địa phương. Không cứ gì các
sắc dân thiểu số, tuy cùng được gọi là người Hán nhưng một người Hán ở
Côn Minh hoàn toàn không nhìn những người Hán ở Bắc Kinh hoặc Thượng
Hải như những đồng bào. Quan hệ giữa các tỉnh Trung Quốc còn lỏng lẻo
hơn nhiều so với quan hệ giữa các nước Châu Âu, đôi khi còn mang những
thù hận chưa được hóa giải của quá khứ.
Trong suốt dòng lịch sử dài của nó, sự
thống nhất của Trung Quốc đã chỉ được duy trì bằng bạo lực và tàn sát.
Thí dụ như giữa thế kỷ 19 để dẹp cuộc khởi nghĩa ly khai của Hồng Tú
Toàn nhà Thanh đã tàn sát 70% dân chúng các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây,
Vân
Nam và 90% dân chúng tỉnh Quý Châu. Tinh thần dân tộc của người Trung
Quốc hầu như không có. Chính vì thế mà các nước rất nhỏ bé và chậm tiến
như Mông Cổ và Mãn Châu đã có thể thiết lập những ách thống trị lâu dài.
Các triều đại Nguyên, Thanh sau cùng đã cáo
chung vì tham nhũng và lỗi thời chứ không phải vì là những ách thống
trị ngoại bang.
Bế tắc chính trị của chế độ cộng sản Trung Quốc cũng đã chứng tỏ không
có lối thoát. Khi mới lên cầm quyền Hồ Cẩm Đào đã muốn nới lỏng dần dần
những quyền con người cơ bản với hy vọng chuyển hóa dần dần về dân chủ
trong trật tự nhưng trong những năm cuối, nhất
là từ năm 2011 trở đi, ông đã phải đảo ngược chính sách và gia tăng đàn
áp. Năm 2013 Tập Cận Bình lên cầm quyền với một chủ trương rõ rệt : từ
chối cải tổ chính trị, tăng cường độc quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
và thanh trừng mọi khuynh hướng ly tâm trong
đảng. Tập Cận Bình thừa kế một Trung Quốc tương tự như Liên Xô của
Gorbachev cuối thập niên 1980. Gorbachev đã thất bại khi cố làm những
thay đổi cần thiết nhưng ít ra cũng đã tránh cho Liên Xô một sự sụp đổ
trong hỗn loạn. Tập Cận Bình trái lại từ chối làm
một việc phải làm. Hậu quả chắc chắn sẽ bi đát hơn.
Nhưng việc phải làm đó là gì ? Đó chính
là sự chuyển hóa bắt buộc về dân chủ. Các tiến bộ về giao thông và
truyền thông đã thay đổi hẳn thế giới, kể cả Trung Quốc. Tăng trưởng
kinh tế trong ba thập niên qua cũng đã cho người Trung Quốc thêm sức
mạnh. Họ
đã hiểu rằng con người phải có những quyền căn bản, họ muốn và ngày
càng có thêm khả năng để đòi hỏi những quyền đó.
Nhưng vấn đề là Trung Quốc không thể tồn
tại với lãnh thổ và dân số hiện nay dưới một chế độ dân chủ vì các vùng
của Trung Quốc quá khác nhau và cũng không muốn chia sẻ một tương lai
chung. Vấn đề cũng là chủ nghĩa cộng sản, chất keo gắn bó các vùng với
nhau, đã trở thành ghê tởm. Trên trang Web
http://www.ninecommentaries. com do phong trào Thoái Đảng thiết lập
từ tháng 11/2014 hàng ngày trên 50.000 người tuyên bố ly khai với Đảng
Cộng Sản Trung Quốc. Số người ly khai hiện đã lên quá 200 triệu.
Lịch sử Trung Quốc nói chung là sự lặp lại của cùng một kịch bản, một
kịch bản chưa thay đổi vì thể chế chính trị vẫn còn là một thể chế tập
trung chuyên chính. Kịch bản đó như sau : một chính quyền được dựng lên
trong hoàn cảnh xã hội tan hoang và kiệt quệ
; chính quyền thành công trong những năm đầu và xã hội dần dần hồi sinh
; xã hội càng hồi sinh thì nhu cầu kiểm soát càng lớn và chính quyền
càng cần tăng cường bộ máy cai trị ; bộ máy quan liêu vì thế tiếp tục
phình ra và sau cùng trở thành mạnh hơn quyền
lực chính trị ; kết quả là quyền lực chính trị suy yếu dần và tích lũy
mâu thuẫn, cuối cùng bị một lực lượng khác đánh đổ sau một cuộc xung đột
làm xã hội suy kiệt ; và kịch bản bắt đầu lại từ số không.. Kịch bản
này hiện đã tới màn cuối dưới chế độ cộng sản.
Tập Cận Bình đang cố xiết lại để ngăn ngừa sự xuất hiện của một lực
lượng mới.
Khi Nguyễn Tấn Dũng lặp đi lặp lại là
“nhất quyết không để nhem nhúm những tổ chức đối lập”, ông ta chỉ nhắc
lại một ám ảnh của quan thầy Bắc Kinh.
Phải lo ngại cái gì ?
Chế độ cộng sản Trung Quốc còn trụ được bao lâu nữa ?
Như đã nói ở đầu bài này, đừng nên quên
rằng Trung Quốc không phải là một quốc gia mà là một thế giới, một thiên
hạ hay một đế quốc tùy cách nhìn, do đó sự thay đổi chế độ sẽ không
nhanh chóng như trong một quốc gia mà sẽ diễn ra một cách tương tự như
sự tàn lụi của một đế quốc. Các giai đoạn cuối trào của các đế quốc nói
chung và của Trung Quốc nói riêng thường kéo dài khá lâu. Tuy nhiên
chúng ta đang sống trong một thế giới thay đổi dồn dập. Các diễn biến có
thể nhanh hơn rất nhiều.
Càng nhanh hơn vì một lý do khác. Chế độ
cộng sản Trung Quốc tồn tại từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn dựa trên
hai hợp đồng bất thành văn miễn cưỡng.
Hợp đồng thứ nhất là nhân dân chịu đựng
chế độ toàn trị, và cả sự tàn phá của môi trường, với điều kiện là Đảng
Cộng Sản duy trì được một mức tăng trưởng kinh tế cao. Ôn Gia Bảo tỏ ra
đã hiểu thỏa hiệp này khi ông nói rằng nếu mức tăng trưởng xuống dưới
8% thì sẽ có bạo loạn. Hợp đồng này ngày nay đã chấm dứt vì kinh tế suy
thoái.
Hợp đồng thứ hai là quần chúng Trung Quốc chịu đựng bất công xã hội để
cho một thiểu số làm giầu với thỏa hiệp ngầm là như thế họ sẽ có thêm
vốn để gia tăng đầu tư thúc đẩy kinh tế. Hợp đồng này đã bị phản bội khi
những người giầu có bỏ ra nước ngoài mang theo
tài sản. Sự phẫn nộ có thể bùng nổ rất dữ dội.
Có cần lo sợ sự sụp đổ của chế độ cộng sản và sự tan vỡ gần như chắc
chắn của Trung Quốc không ? Mối nguy thường được nói tới là chính quyền
Bắc Kinh có thể gây hấn với bên ngoài để kêu gọi đoàn kết dân tộc và làm
dịu những mâu thuẫn bên trong. Nhiều người
đang lo âu trước việc Trung Quốc xây những phi trường trên những đảo
nhân tạo tại Biển Đông.. Nhưng sự lo ngại này không cần có. Nó là do
cách nhìn Trung Quốc như một quốc gia thay vì một đế quốc.
Thực tế cho thấy các đế quốc chỉ gây hấn trong những giai đoạn cường
thịnh, trái lại rất nhu nhược đối với bên ngoài trong những giai đoạn
cuối trào, để dồn sức đương đầu với những khó khăn bên trong. Trung Quốc
cũng không phải là ngoại lệ. Trong những lúc
suy vi, các hoàng đế Trung Quốc không những không xâm chiếm các biên
quốc mà còn phải cống hiến những quý phi, có khi cả những công chúa, cho
các vua các nước nhỏ chung quanh để cầu an. Chuyện Chiêu Quân cống Hồ
chỉ là một trong rất nhiều thí dụ. Việt Nam
và thế giới sẽ không phải lo ngại một sự gây hấn nào.
Cũng không cần lo ngại cho người Trung Quốc. Trung Quốc có phân chia
thành bốn hay năm nước thì đó cũng vẫn là những nước lớn bậc nhất thế
giới, nhưng đồng điệu hơn và hợp lý hơn Trung Quốc hiện nay. Điều mà
chúng ta có thể chúc cho người Trung Quốc là những
thay đổi cần thiết sẽ diễn ra trong hòa bình.
Thiên triều sụp đổ
Câu hỏi bao giờ chế độ cộng sản Trung Quốc sẽ sụp đổ không đặt ra, hoặc
đặt ra một cách rất khác, đối với chế độ cộng sản Việt Nam. Đối với một
chư hầu, một đế quốc coi như đã sụp đổ khi không còn là một chỗ dựa nữa.
Đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam, chế độ cộng sản Trung Quốc coi như đã
sụp đổ. Nó đang quá bối rối với những khó khăn nội bộ để có thể hỗ trợ
cho chế độ cộng sản Việt Nam. Bắc Kinh lo cho mình cũng chưa xong còn
mong gì giúp được ai. Họ sẽ phải buông Việt Nam
và Triều Tiên dù không muốn như Liên Xô đã từng phải buông Đông Âu
trước đây. Nhưng chế độ cộng sản Việt Nam lại rất cần bám lấy Trung
Quốc.
Trong cuộc tiếp xúc ngày 26/6/2014 tại Sài Gòn, ông chủ tịch nước Trương
Tấn Sang đã không cải chính lời phát biểu của chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm,
theo đó Trung Quốc thỏa thuận viện trợ cho Việt Nam 20 tỷ USD và cho vay
100 tỷ USD. Chế độ cộng sản Việt Nam rất
cần yểm trợ tài chính này bởi vì do hậu quả của bất tài và tham nhũng
kinh tế Việt Nam thực ra đang ở trong tình trạng phá sản.
Theo phát biểu của chính ông Trương Tấn Sang tháng 11/2014 tại quốc hội
thì tình trạng kinh tế Việt Nam “rất không thoải mái”. Ba phần tư số thu
ngân sách (khoảng 30 tỷ USD năm 2014, giảm nhiều so với năm 2013) được
dùng để trả lương, phần còn lại không đủ
để trả nợ. Nói gì tới những chi tiêu tối cần thiết khác.
Một điều cần được nhìn thật rõ là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ là
một đảng tự lập. Nó luôn luôn dựa vào một thế lực bên ngoài nào đó. Ra
đời như một phân bộ của Đệ Tam Quốc Tế, nó đã tranh đấu, rồi cầm quyền,
với sự bảo trợ của Liên Xô hoặc Trung Quốc,
hoặc cả Liên Xô lẫn Trung Quốc. Giữa thập niên 1980 khi Liên Xô suy yếu
và không còn bảo trợ được nữa, nó đã vội vã bỏ ngay lập trường thù địch
để xin được phục tùng Trung Quốc. Trái với một nhận định hời hợt không
phải Bắc Kinh cố thu phục Hà Nội mà chính
Hà Nội đã cầu khẩn và làm tất cả để được lệ thuộc Trung Quốc. Trong mấy
năm gần đây khi Liên Bang Nga có vẻ mạnh lên ban lãnh đạo cộng sản Việt
Nam cũng đã cố gắng tranh thủ sự hỗ trợ từ Nga. Văn hóa của Đảng Cộng
Sản Việt Nam là một văn hóa chư hầu.
Tất cả những tính toán và kỳ vọng của họ đều đã hoặc đang sụp đổ. Nước
Nga của Putin đã bại sụi sau cuộc phiêu lưu Ukraine. Đến lượt Trung Quốc
cũng chao đảo và sắp sụp đổ. Rất có thể là chính Bắc Kinh đã nói với Hà
Nội là hãy tìm những nguồn hỗ trợ khác vì
họ không còn khả năng giúp đỡ ai cả. Điều đó có thể giải thích những
chuyến công du Hoa Kỳ dồn dập của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam gần
đây, kể cả chuyến đi sắp tới của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những
chuyến thăm viếng này đều do sáng kiến của Hà
Nội.
Lịch sử không phải chỉ sắp sang trang mà đang sang trang. Mọi người Việt
Nam đều phải sáng suốt để tránh những ngộ nhận tai hại. Những thành
viên bộ chính trị và ban bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam có thể thù ghét
nhau vì tranh giành quyền lực và quyền lợi, nhưng
họ đều hoàn toàn đồng ý với nhau là phải dựa vào Trung Quốc để duy trì
chế độ độc tài toàn trị. Tất cả đều chống dân chủ. Tất cả đều đồng ý
rằng “đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng” và tất cả đều
đồng ý chẳng thà mất nước chứ không mất đảng. Không
có một ngoại lệ nào cả.
Nhưng bây giờ họ không còn chọn lựa nào khác là đi với Mỹ (“Mỹ” phải
được hiểu là các nước dân chủ) vì họ không dựa vào Trung Quốc được nữa.
Chiến lược của họ trong lúc này chỉ là cố kéo dài thời gian hấp hối của
chế độ và làm mất thêm thời giờ của nước ta
trong cuộc chạy đua về tương lai, dù chúng ta đã mất quá nhiều thời giờ
và đã quá chậm trễ. Chúng ta không được quyền có một ngộ nhận nào cả.
Mọi ưu tư của chúng ta phải dồn vào cố gắng để đất nước bước vào kỷ
nguyên dân chủ một cách nhanh chóng nhất trong tinh thần hòa giải và hòa
hợp dân tộc để chúng ta có thể lập tức cùng nắm tay nhau chinh phục
tương lai.
No comments:
Post a Comment