Có một sự thật đó là ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975 mang đậm chất
“lính”, cũng là điều dễ hiểu vì miền Nam khi đó đang trong thời kỳ “leo
thang chiến tranh” với lệnh “tổng động viên” trên toàn lãnh thổ.
Thanh niên đến tuổi 18 đều bị “động viên” vào quân ngũ, chỉ trừ một số
trường hợp được “hoãn dịch” vì lý do sức khỏe, gia cảnh hoặc học vấn
…“Đi lính” là một thuật ngữ xuất hiện thường xuyên trên đầu môi cũng như
trong tâm thức của mọi người. Bậc cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi
“quân dịch” còn thanh niên thì đứng trước một ngã rẽ quan trọng của cuộc
đời: “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Mối lo của họ được thể hiện
qua ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai câu thơ này không
biết có ai còn nhớ hay không:
Rớt tú tài anh đi trung sĩ,
Em ở nhà lấy Mỹ cho xong…
Thời nào cũng vậy, những thành phần COCC (chữ tắt của cụm từ Con Ông
Cháu Cha), bao giờ cũng có cách luồn lách để khỏi đi lính. Người Sài Gòn
thường dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân dịch”. Một trong những cách
“trốn lính” là tìm đường cho các “quý tử” đi du học, hay cùng lắm, khi
bị “bắt lính” các bậc cha mẹ lo “chạy” để con được phục vụ trong các đơn
vị không tác chiến, làm “lính văn phòng” hay còn một thuật ngữ rất phổ
biến là “lính kiểng”. Người ta thường chưng hoa kiểng, cây kiểng để làm
đẹp căn nhà nhưng “lính kiểng” lại chính là một hình thức “tự làm đẹp
đời mình” trước những viễn cảnh u ám của chiến tranh, bom đạn, chết chóc
vẫn xảy ra hàng ngày, dôi khi loại lính này còn được gọi qua cái tên
nghe khá ngộ nghĩnh nhưng cũng rất thâm thúy: “lính cậu”.
Chả là thứ lính này xuất thân từ những “cậu ấm” trong các gia đình
quyền thế hoặc giàu có. Đây là loại “lính nhưng không phải là lính” nếu
đem so sánh với những chiến binh ngày đêm phải đương đầu với súng đạn
tại những tiền đồn heo hút hay rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn với chốn
phồn hoa đô hội. Xem ra câu “huynh đệ chi binh” không phải lúc nào cũng
đúng như ý nghĩa vốn có của nó, hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam,
kẻ trước người sau, đều lần lượt rời ghế học trò để khoác trên mình bộ
quần áo lính. Đó có thể là sắc áo “rằn ri” của các binh chủng dữ dằn như
Nhảy dù (được “thần tượng hóa” thành “thiên thần mũ đỏ”). Lực lượng đặc
biệt, Biệt cách dù (AirborneRanger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù trong
trận chiến An Lộc đã nổi tiếng với 2 câu thơ: “An Lộc địa, sử ghi chiến
tích. Biệt Cách Dù vị quốc vong thân) hay Thủy quân lục chiến đội trên
đầu chiếc mũ “mũ be-rê xanh” còn Biệt động quân thì lại chọn màu mũ nâu.
Tuy nhiên, mũ be-rê chỉ dùng khi về phép và các dịp đặc biệt, khi ra
trận mọi quân binh chủng đều đội chiếc “mũ sắt” phía bên trong có lót
lớp “nũ nhựa” để bảo vệ phần đầu. Trên nguyên tắc là vậy chứ nhiều khi
đạn có thể xuyên thủng “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách gần, lính bộ binh
thì “hiền” hơn với bộ kaki, sau này được thay thế bằng bộ quân phục
“bốn túi”, áo bỏ ngoài quần, giống như lính Mỹ. Đặc điểm của bộ binh là
phải “gom ống quần” trong khi Không quân và Hải quân được thả ống quần,
“lè phè”, thoải mái. Cũng vì thế lính không quân và hải quân sợ nhất là
bị “gom ống quần lội bộ”, thuật ngữ ám chỉ bị thuyên chuyển sang bộ binh
để đi tác chiến …“Giày trận” được gọi là “bốt đờ sô” (botte de saut),
có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có loại giày kết hợp giữa da và
vải, rất nhẹ trong những chuyến lội rừng, băng suối. Lính “địa phương
quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn với những đôi giày bằng vải bố,
được gọi tắt là “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta” nhưng cổ cao hơn giày
thường, ngay khi bắt đầu trình diện tại các Trung tâm Tuyển mộ Nhập ngũ,
thanh niên dù “đăng lính” hay bị “bắt lính” cũng đều phải qua một trong
những thủ tục là làm “thẻ bài”.
Tấm “thẻ bài” là vật bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời
gian tại ngũ của quân nhân. “Thẻ bài” tựa như tấm lắc đeo ở cổ con chó
nên người Mỹ gọi nó bằng cái tên… “dog tag”!..,mỗi quân nhân bắt buộc có
2 tấm “thẻ bài” bằng kim loại không rỉ, được đeo bằng sợi dây cũng bằng
kim loại. Trên mỗi tấm có ghi họ tên, “số quân” và loại máu để khi bị
thương, cần tiếp máu, quân y biết ngay loại máu gì. Khi người chiến sĩ
tử trận, một tấm thẻ bài được bỏ trong miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ
giữ lại để làm tài liệu báo cáo và trong số các món quân trang, quân
dụng được cấp phát, ngoài chiếc balô người lính còn có poncho là một tấm
vải mưa trùm đầu theo kiểu vải khoác của người Nam Mỹ. Poncho ngoài
việc là áo mưa còn có một công dụng mà bất cứ người lính nào cũng chẳng
muốn sử dụng: poncho sẽ được dùng để khâm liệm xác của tử sĩ bỏ mình
trên chiến trường.
Blog Saigon Xưa
No comments:
Post a Comment