Nhà tôi “dương thịnh
âm suy”, một ông bố với ba thằng con trai mà tôi hay gọi đùa là “bố già,
bố trẻ”. Đàn ông lo việc ngoài, đàn bà lo việc trong, người lo việc
ngoài ăn xong bày bừa ra cho nên việc trong dù không ít hơn việc ngoài,
nhưng vẫn mang tiếng là “ngồi chơi xơi nước”. Ngày được định cư tại Hoa
Kỳ, vừa đặt chân đến phi trường Quốc Tế, người bảo trợ có mời thêm vài
người quen cùng đón cho xôm tụ, một bà nhìn gia đình mới đến phán một
câu xanh rờn: “ Nhà này kém phúc đức nên đẻ toàn con trai”. Cả nhà ngớ
ra không hiểu, sau mới biết gía chi có một cô con gái xinh xinh tuổi cập
kê, nhà sẽ tấp nập vài chàng trẻ tuổi đang kiếm vợ chở đi làm giấy tờ,
khám sức khoẻ hay chợ búa, không vắng như “chùa Bà Đanh”.
Tôi
không thích khoe khoang về ông “Bố” của nhà đâu, vì chả lẽ lại “mèo
khen mèo dài đuôi”, những điều tầm thường trong cuộc sống gia đình chắc
nhà nào cũng giống nhau. Ngày lễ Cha ai cũng nhắc đến công ơn sinh
thành dưỡng dục của Bố, nhưng cha tôi mất sớm lúc tôi mới năm, sáu tuổi,
nặn óc để tìm lại hình ảnh người đã tạo ra mình tôi vẫn không nhớ được
bao nhiêu. Vì vậy, người gần gũi nhất trong cuộc đời tôi là bố của lũ
con, nếu ví von như cái nóc nhà che mưa che nắng thì cũng không sai chút
nào.
Khi
hai đứa con tuổi còn thơ ấu bố đã không có nhà, đây là sự thiệt thòi
của tuổi thơ mặc dù có mẹ nuôi dưỡng. Thời gian ấy mọi sự bế tắc đè nặng
lên gia đình tôi, trong cũng như ngoài, tôi ôm hết cả hai. Nỗi đoạn
trường này là của chung nhiều nhà chứ chẳng phải riêng nhà tôi, lưới
giăng lồng lộng chẳng chim nào bay thoát nên tôi đành chấp nhận, vừa
chạy chợ kiếm ăn vừa dạy con.
Con
vừa lớn là bố về kịp lúc, cả nhà mừng húm dù thêm một miệng ăn. Sau một
ngày vất vả, lúc về tôi thường tạt qua chợ chiều tìm mua thực phẩm ế
ẩm cuả bạn hàng trong chợ, cuối ngày bán tống bán tháo để về nhà. Bữa
cơm nhà nghèo thường chẳng có cao lương mỹ vị, tôi tìm cách chia sao cho
bố con cùng vui cùng no. Ít trái cây, vài cái bánh, tôi chia phần:
“Ai nhiều tuổi thì được ăn nhiều, ai ít tuổi ăn ít. Bố hai cái, mẹ và các con mỗi người một cái đồng đều.”
Thằng bé con ngồi đếm xong con toán nhỏ phụng phịu hỏi:
“Sao mẹ lớn mà cũng chỉ có một? Con cũng muốn hai như bố.”
Trẻ
con chưa hiểu nổi cảnh nhịn cơm xẻ canh trong thời buổi khó khăn, người
lớn chỉ biết cười mà ngậm ngùi trong dạ. Trong trại ngày hai bữa cơm
tù, ăn thế nào cũng xong. Trở về với gia đình chưa vui hết niềm xum họp,
lắm nhà đã vỡ tan vì cơm áo gạo tiền. Tôi nhìn quanh cuộc sống, nhiều
gia đình như vậy nên biết phải tế nhị hơn để cuộc sống tuy thiếu thốn
một chút, nhưng chẳng có lúc nào chữ tình chữ nghĩa quý bằng lúc này,
chỉ cần gắt gỏng nói một câu thiếu suy nghĩ là hết cả cái tình mình hằng
nâng niu gìn giữ.
Thằng
bé chào đời sau ngày bố đi xa, mãi đến 7 tuổi mới thấy bố xuất hiện nên
cũng hay “ghen” với bố, tự nhiên trong nhà có một “ông” lạ hoắc đi ra
đi vào, lại có vẻ được săn sóc, chia phần nhiều hơn thì khó chịu lắm.
Nhưng dần dần cu cậu lại thích vì từ nay đã có bố đón đưa khi đến trường
hay tan học, đối mấy thằng nhóc to con ăn hiếp thì cu cậu đã vênh mặt
lên ra điều “Bố tao đấy!”. Oai thật, bài vở khó đã có bố giảng
giải cặn kẽ đến khi nào hiểu mới thôi. Tuy bố chưa kiếm được việc làm để
có tiền mua đồ chơi cho con, nhưng mùa trung thu Bố làm cho cái đèn lon
sữa bò đục lỗ, trong để cây đèn cầy kéo leng keng trên con hẻm nhỏ,
nghe cũng vui tai mà không bị cháy như đèn con gà, con thỏ. Bố về, thêm
những món đồ chơi thủ công đẹp khéo tuyệt vời, máy bay, xe tăng, chim
chóc xếp bằng giấy, cu cậu tha hồ chơi suốt ngày không chán.
Có
bố ở nhà con học hành khá hơn, đứa lớn đã bước vào Trung Học, bỏ đi
những môn vớ vẩn nhồi nhét chính trị, bóp méo lịch sử thì mấy môn chính
như sinh ngữ, toán bao giờ cũng được kèm cặp đâu vào đấy. Dù sao vốn chữ
nghĩa của bố không đến nỗi tệ, tôi yên tâm chạy chợ kiếm ngày hai bữa
cơm, việc dạy dỗ học hành cuả con giao toàn quyền cho bố đảm trách.
Thỉnh thoảng bố chở con ra bờ sông câu cá, vào công viên chơi đá banh,
hôm nào có tiền mua cho con dĩa bò khô, cây “cà rem”, mấy bố con chơi
với nhau , nhìn bên ngoài tưởng an nhàn, thảnh thơi nhưng thực ra cuộc
sống đang tắc nghẽn trong vòng rào kẽm gai.
Khổ
thay! Từ ngày Bố về từ cái nhà tù nhỏ là bước luôn vào cái nhà tù lớn,
màng nhện giăng tứ phía như “thiên la địa võng” nên đi đâu cũng có người
“quản ný” chặt chẽ. Bực lắm nhưng biết làm sao, ngay cả cái hộ khẩu
cũng không có nên hễ đêm nào nghe tiếng chó sủa, tiếng bước chân đi rầm
rập trên con hẻm tối thui, thêm một hồi chuông cửa lảnh lót giữa đêm
khuya là biết nhà được “hỏi thăm”.
Cửa
vừa mở, bốn năm cái bóng ùa vào nhảy thoắt lên cầu thang, chỉa đèn pin
sáng loè ra tứ phía, vào tận mấy cái giường còn buông mùng sùm sụp. Đang
ngủ ngon bị ánh đèn pin chỉa ngay vào mặt, thằng bé con ngái ngủ càu
nhàu:
“Thằng nào chơi kỳ dzậy?”
Đèn
tắt ngúm, các chú “công an” đi xét nhà kiểm soát người cư trú bất hợp
pháp đấy chứ có “thằng” nào đâu, nhưng trong mùng chỉ là thằng con nít
đang say ngủ, lục khắp nhà cũng không kiếm ra người ở lậu không khai
báo. Sống không hộ khẩu là bất hợp pháp rồi, lại đuổi, đêm nào nghe
tiếng chó sủa ồn lên từ ngõ ngoài vào ngõ trong là biết những nhà nào
trong xóm được hỏi thăm. Nhà bác Mười “Biệt Kích Dù” bán cá kiểng cá đá,
nhà bác Ngôn cựu giám đốc huấn luyện trường Phi Hành ở Nha Trang ngày
xưa, toàn những người vừa từ trại cải tạo về. Sáng hôm sau lại vắt giò
lên cổ trình quan Quận, thiếu thủ tục “đầu tiên” nên khi ra về ai cũng
nhận tờ trát phải đày đi vùng kinh tế mới. Vẫn lì ra không đi, viễn ảnh
một vùng đất khô cằn trơ trụi, không trường học chợ búa, lấy chi mà
sống, bao người từ những nơi ấy đã liều lĩnh trở về, không nhà, không hộ
khẩu ngủ đầy dưới mái hiên hè phố, đã sao đâu, cùi đâu còn sợ lở.
Muốn
lì lợm sống còn trong thời buổi đó cần phải có việc làm, kẻo mang tiếng
ăn bám xã hội, lười lao động. Bố đi tìm việc làm, chỗ nào cũng lắc đầu
quầy quậy vì cái lý lịch tối thui, may quá nhờ người quen dẫn vào làm
một chân “cu ly” đẩy xe ba gác cho hợp tác xã Cơ Khí. Sài Gòn nắng nung
người, nắng như thiêu như đốt nên Bố đen thủi đen thùi như con cháu nhà
Sihanúc, nhìn thoáng là biết Bố thuộc tầng lớp nào trong xã hội. Dù
lương ít nhưng vẫn có lý do “lao động là vinh quang” để bám trụ thành
phố. Mặc kệ, sóng đánh tới đâu thuyền neo tới đó, cạn ao thì bèo xuống
đất, vẫn hiên ngang ngẩng mặt nhìn đời vì miếng cơm manh áo mình làm ra
từ giọt mồ hôi lẫn trong nước mắt.
Chịu
đựng mãi rồi cái gì cũng qua, cho đến một ngày thấy thiên hạ ùn ùn đăng
ký đi Mỹ theo diện H.O thì cả nhà vừa mừng vừa không tin nổi, cứ như
truyện huyền thoại cây đèn thần xứ Ba Tư. Thời bấy giờ người ta gọi là
“những người ho hen” vì ở tù về có hằng trăm thứ bệnh, nhưng cũng nhờ
cam khổ khi thất thế mà sau này cái gì cũng chịu đựng được. Ánh sáng
le lói cuối đường hầm, hình như mãi đến lúc này những người như Bố mới
có cơ hội ngẩng mặt lên nhìn ánh mặt trời. Người có tiền rỉ tai nhau ùn
ùn ra Hà Nội chạy chọt để được đi trước, ai cũng bảo nhau “sang sau,
trâu chậm uống nước đục”, Bố vẫn bình chân như vại vì nghĩ chương trình
“Ra Đi Có Trật Tự” thế nào cũng tới lượt, với lại con người còn có số
mạng. Ở đó mà chờ tới lượt, không có thủ tục “đầu tiên” thì đừng nói
chuyện ra đi. Sốt ruột quá, mẹ lại vét hết trong nhà cho đủ tiền lên
danh sách mới chóng được rời khỏi đời sống tối tăm này, thôi đành “qua
sông thì phải luỵ đò” vậy.
Ngồi
trên máy bay rồi cả nhà mới thở phào, dù rằng trước giờ ly biệt với
người thân, những giọt nước mắt ngắn dài thi nhau tràn ướt má. Người ở
lại vẫn vất vả với cuộc sống vá víu hằng ngày, người đi mơ ước một tương
lai xán lạn cuối chân trời, nhưng vẫn lo lắng chẳng biết sẽ làm gì nơi
xứ lạ. Mãi tới khi đặt chân đến phi trường đầu tiên ở San Francisco chờ
máy bay chuyển tiếp sang Houston, thấy người lao công quét dọn rất nhàn
tản trong nhà vệ sinh mát rượi , Bố cứ thắc thỏm mơ ước sao qua Mỹ kiếm
được một cái “job” thơm như vậy.
Mùa
Đông đầu tỉên ở nước Mỹ mưa gió lạnh lùng, buồn bã làm sao, nhưng đó là
cảnh ngoài trời còn trong nhà thì đang chứa chan niềm hy vọng. Khổ
nhiều rồi, chả lẽ không chịu nổi khi xứ sở này cơ hội có bỏ ai bao giờ,
nếu không lười biếng mà chấp nhận ngay một công việc tầm thường, đời vẫn
còn ngon chán. Ở quê nhà, ai cũng tưởng hễ sang Mỹ là lũ nhỏ nhảy tót
vào trường học, chỉ một thời gian là tốt nghiệp bằng này cấp kia. Thực
ra con ngu ngơ chưa biết gì, tiếng Anh còn ngọng ngịu nói mãi chưa được
một câu, Bố vẫn hiên ngang làm cái “đầu tàu” kéo nguyên một toa tầu
nặng nề vượt qua những chặng đường ray dài dằng dặc.
Vừa
qua Mỹ người tỵ nạn nào cũng cuống quýt lên đi tìm việc làm, trước hết
trả tiền nhà cửa , “bill” bọt hằng tháng, sau là gửi về VN cho người
thân để khoe cái may của mình khi ở “xứ sở của mật ong và sữa”, mấy ai
đã có lúc hiểu nổi cái khổ của con bò và con ong. Chân ướt chân ráo vừa
đến được hơn tuần, một bà cùng quê đã ưu ái quan tâm gọi tới, giọng “bề
trên” chắc nịch:
“Nếu
cô chú muốn mau ổn định như người ta, phải nghe tôi. Tôi có cái tiệm
“Grocery” khu da màu đắt hàng lắm, thấy chú nhanh nhẹn tôi dành cho một
chân bán hàng từ 5 giờ chiều đến 11 giờ đêm, (giờ của bóng đêm và tội
ác), buổi sáng vẫn đi học được như thường. Cô sạch sẽ khoẻ mạnh, đến nhà
giữ cháu nội cho tôi và làm việc nhà, mỗi tuần hai trăm, người khác chỉ
trả trăm rưởi.”
Cả
nhà ngồi tính toán, lại mừng húm, trước mắt có công ăn việc làm rồi nhà
cửa, xe cộ mấy hồi, đời cứ đẹp như mơ. Nhưng khi hai vợ chồng dẫn nhau
đến “tham quan” tiệm tạp hoá trong khu nhà thấy mấy ông da màu đang xúm
quanh đống củi sưởi ngoài sân, giương mắt chò hỏ nhìn chằm chằm mấy
người Á Châu thì hãi quá. Vợ phát rét bảo chồng:
“Thôi
anh ạ, khổ thì khổ nhiều rồi. Chính phủ cho mình 8 tháng trợ cấp là để
đi học tìm một việc làm hợp khả năng,thế nào họ cũng giới thiệu công
việc cho mình, đi làm hãng xưởng vẫn yên tâm hơn. Tại sao không hưởng
những ngày học hành thư thả cho người nó khoẻ ra rồi hãy đi làm? Em cũng
không thể bỏ chồng bỏ con ở nhà để làm “ô sin”, tiền thì lúc nào chả
cần nhưng so với cái “đoạn trường” sau năm 75 chả thấm gì.”
Hai
vợ chồng dắt nhau về, còn nghe thêm một bài “gia huấn ca” của người
đồng hương là cái thứ mới qua “bày đặt học với hành”. Mãi sau này mới
nghe bà ta tự thú rằng đã từng bị kê súng vào màng tang mấy lần mà may
quá nó không “bóp cò”, chứ không cũng đã “tiêu diêu miền cực lạc”. Sau
này nghe nhiều người đi trước cũng bảo, chẳng thời gian nào khoẻ bằng
lúc mới đến hưởng trợ cấp đi học, khi đi làm rồi mới thấy cái khổ cuả
những sáng mùa đông rét thấu xương, những trưa mùa hè nắng cháy, những
chiều mệt nhọc khi tan ca mặt trời đi ngủ sớm.
Cuối
cùng Bố cũng tìm được việc làm do Y.M.C.A giới thiệu, lương bổng chẳng
bao nhiêu nhưng cứ hai tuần lại có cái “check” mang về khoe vợ con.
Công việc không nhọc nhằn lắm so với những ngày lao động ở quê nhà,
nhưng gò bó thời gian như một cái máy chạy đúng giờ giấc. Sáng mù sương
rét buốt đã phải lóc dậy lái xe đi làm, hai cha con chung nhau một xe,
chiều về đi xe bus vì con đã lái xe đi làm, đi học. Nhờ cái xe tàng mua
rẻ được của một ông Mỹ gìa, trong thời gian này hễ có ngày nghỉ là cả
nhà kéo nhau đi chơi. Hết câu cá, câu cua lại ra biển tắm tát, điếc
không sợ súng nên chỗ nào cũng mò tới mà không sợ xe bị “banh ta lông”
dọc đường.
Nhà
ba thằng con trai là ba thế hệ khác nhau, tuổi tác chênh nhau nên mỗi
đứa Bố lại phải hướng dẫn một kiểu. Đứa lớn nhất đã trưởng thành ở VN,
không sợ con hư hỏng nhưng đường đời con còn non nớt quá, chưa hòa nhập
được với xã hội mới vì bất đồng ngôn ngữ cũng có, sự học dở dang từ VN
nay bắt lại từ đầu khó nhọc biết mấy, cũng vẫn bố khuyến khích dìu dắt
để vào đời. Lo nhất là thằng tuổi “teen” mà cha mẹ nào ở Mỹ cũng phát
sốt lên vì những phức tạp tâm lý trong những con người trẻ đang tuổi dở
dở ương, nhưng cũng nhờ phước đức ông bà để lại, sóng trước đánh đâu
sóng sau vỗ đó nên thằng anh lại hướng dẫn thằng em, 5 ngày trong tuần
đi học còn cuối tuần đi bưng phở kiếm tiền xài thêm.
Mới
đút đầu ra đời cu cậu đã choáng váng với cách “vắt chanh phải vắt cho
kiệt, xứng với đồng tiền bát gạo” cuả bà chủ tiệm, suốt hai ngày cuối
tuần làm việc cật lực nên không có giờ đàn đúm với bạn bè. Khi đổ rác,
lúc bưng tô, vài đứa trẻ tuổi mới từ VN sang đã có lúc bị bà chủ mắng té
tát khi đứng nói chuyện với nhau ngoài thùng rác. Một anh có tuổi hơn
thở dài khuyên thằng đàn em cùng ngành bưng bê:
“Ráng học em ơi! Sau này anh em mình phải ráng thành tài để khỏi bị người ta mắng mỏ như vậy, nhục lắm!”
Nhờ
ý chí vươn lên mà sau này cả hai đều đậu bằng Cao học, một kỹ sư điện
toán và một kỹ sư xây dựng. Khi dẫn bạn đến ăn ở tiệm phở ngày xưa, bà
chủ đã đon đả chào và khoe với khách hàng: "Tiệm của tôi toàn đào tạo
kỹ sư, bác sĩ”. Thật vậy, nếu không nhờ những lời mắng mỏ như té nước
của bà thì xã hội đâu có nhân tài.
Thằng
bé nhất còn nhỏ quá khi đến Mỹ, đây là sản phẩm “Made in Vietnam” mà
Thượng Đế tặng cho cặp vợ chồng gìa, nhưng hoàn toàn hấp thụ văn hoá
Mỹ, nếu như bố mẹ không khéo gần sẽ thấy cách con hằng vạn dặm. Cha con
bàn với nhau, nhà cần có người cơm nước, em cần có mẹ đưa đón khi đi
học, và sau giờ học điều cần nhất là không để thằng lỏi lang thang không
ai kèm cặp. Giữ thêm vài đứa trẻ nữa để mẹ ở nhà chỉ lo việc trong mà
khỏi lo việc ngoài, khỏi thức khuya dậy sớm dầm sương dãi nắng. Kể cũng
là nghề tự do, nghe thì nhàn thật đấy nhưng nghề giữ trẻ cực nhọc chứ
không nhàn hạ như người ta nghĩ.
Ba
đứa con lớn lên trong sự đùm bọc cuả cha mẹ, nhưng lại gần gũi bố nhiều
hơn vì khi bước ra đời, có bao nhiêu điều mà người đàn bà ở nhà không
làm sao hiểu hết được. Cách ứng xử trong cuộc đời đầy lừa lọc nơi nào
cũng thiên hình vạn trạng, với thời gian các con đã tiến lên nhưng vẫn
là con nai tơ đối với cuộc đời muôn mặt. Bố tuy đã lùi bước ra sau nhưng
vẫn là điểm tựa tinh thần để con hỏi ý kiến, rút kinh nghiệm khi gặp
khó khăn trên đường đời. Bản tính bố cần cù, trầm tĩnh, thận trọng và
biết lắng nghe, những điều này cần thiết cho con nhìn rõ những phức tạp
trong dòng đời, giải quyết nhiều vấn đề khi con gặp trở ngại, khác với
mẹ lúc nào cũng cuống quýt lên như gà mắc đẻ.
Bố
còn là chuyên viên kỹ thuật và sửa chữa các thứ hằm bà lằng trong nhà,
chiếc lò nướng đã cũ mẹ vứt vào thùng rác, hôm sau ra “garage” đã thấy
nó chễm chệ trở lại nằm cạnh cái bếp điện. Cái xích đu hỏng biến ngay
thành cái giàn cho hai nàng tóc tiên và tigôn nở hoa. Cả nhà hay gọi bố
là người làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ không phát triển, vì chả chịu mua
sắm gì cho bản thân, nhưng lại rộng rãi với vợ con trong nhà, vậy mới kỳ
cục!
Bây giờ đầu bố
đã bạc, mắt đã mờ chân đã mỏi, bố nói năng không hoạt bát, chẳng biết
thơ phú văn chương nhưng biết sửa cái nhà cái cửa, biết đóng cái giàn
cho bầu bí, hoa kiểng trèo leo. Những công việc tầm thường nhưng thật là
cần thiết, nhiều khi hạnh phúc gia đình chỉ cần có thế, các con cần một
người hướng dẫn chỉ bảo trong nhiều tình huống xảy đến trong cuộc đời.
Bố là chiếc bóng thầm lặng nhưng là bóng mát chở che để gia đình luôn
là một mái ấm. Các con lớn dần lên đã có cuộc đời riêng, bên ông bố gìa
lại thêm mấy ông bố trẻ, mấy nàng dâu thì thầm với mẹ chồng:” Con cũng chỉ mong nhà con được như bố !”
Nguyên Nhung
No comments:
Post a Comment