Nhà thơ Nguyên Sa tên khai sinh là Trần Bích Lan (1 tháng 3, 1932 –
18 tháng 4, 1998) người Hà Nội, qua Pháp du học năm 1949, năm 1953 học
Triết ở đại học Sorbonne, năm 1955 lập gia đình với cô Trịnh Thúy Nga ở
Paris và năm sau hai vợ chồng về Sài Gòn, ông dạy ở Chu Văn An, đại học
Văn Khoa và mở trường Văn Học của riêng mình. Nguyên Sa tham gia hai hội
đoàn là Trung Tâm Văn Bút Việt Nam và Tổng Hội Giáo Giới Việt Nam, chức
vụ phó hội trưởng. Nhập ngũ năm 1966, Thủ Đức khóa 24, và phục vụ tại
trường Quốc Gia Nghĩa Tử cho đến 1975, Với những bài thơ tương tự bài
trên, Nguyên Sa đã mở rộng một khung cửa cho thơ miền Nam mở ra thế
giới. Và tình yêu một khi xa cách, có khác gì một vừng mây bay qua,
không sầu thảm chết chóc gì, đất trời không sụp đổ như trong thế giới
của Đinh Hùng, của Vũ Hoàng Chương.
==========
Tháng ngày của nhau
Giữa Sài Gòn nắng ai đi
Lòng nghe mát dịu chỉ vì áo ai
Lụa Hà Đông sóng áo bay
Hai phần gió một phần mây ru hồn
Như con chó ốm Nga buồn
Con mèo ngái ngủ dỗi hờn tay anh
Cá ươn sắp sửa se mình
Tình yêu chốc bỗng hóa thành tình thơ
Em gầy như liễu buông tơ
Tóc buồn kịp ướp bằng thơ Thịnh Đường
Lòng mình là cốm tỏa hương
Tay ai làm lá sen thơm đầu mùa
Lạy trời tháng sáu trời mưa
Ta van em nhé bóng chưa nhập hình
Đêm khuya giữ hộ bình minh
Cảm ơn khúc lục bát tình ta thương
Đâu màu kỷ niệm vấn vương
Áo xanh mến lá sân trường xanh cây
Áo vàng yêu cánh cúc gầy
Ta pha mực tím… loang đầy tương tư
Sài Gòn tám phố hình như…
Làm sao muối mặn khước từ gừng cay
Thơ không là rượu mà say
Cuộc đời là những tháng ngày của nhau
Nguyên Sa
==========
Nguyên Sa, thơ những năm ’60
Sài Gòn, thủ đô văn hóa miền Nam mới nghe tưởng như là một danh xưng
giai đoạn, chưa chắc đã là một thực thể, song người ta không cần phải
giải thích khi nơi đó có đến ba bốn viện đại học lớn, những trường quốc
gia âm nhạc và kịch nghệ, nơi đặt trụ sở các trung tâm văn hóa Đông Tây
(Hoa Kỳ, Pháp, Đức,…), nơi hàng tuần có những cuộc diễn thuyết và triển
lãm nghệ thuật, nơi hàng ngày có trên mười tờ nhật báo xuất bản, danh
xưng ấy chưa đúng hẳn, Sài Gòn chính xác hơn là nơi đã xuất hiện những
trào lưu học thuật chính dòng, nối nguồn từ di sản văn hóa dân tộc, tồn
tại lâu dài, những trường phái văn nghệ ảnh hưởng trong cả nước mãi mãi,
Sài Gòn là thủ đô văn hóa Việt Nam nửa sau thế kỷ hai mươi, điểm cao
nhất của văn chương báo chí là năm 1960, chính năm này có tới năm bảy tờ
báo văn học cùng xuất bản hay tục bản liên tiếp: Hiện Đại (Nguyên Sa,
tháng 4, 1960), Thế Kỷ Hai Mươi (Nguyễn Khắc Hoạch, 7, 1960), Sáng Tạo
(Mai Thảo, bộ mới số 1 tục bản tháng 7, 1960). Tờ Văn Nghệ của Lý Hoàng
Phong cũng có mặt song hành, nhưng do người phụ trách biên tập quá rụt
rè thận trọng, nên còn bước đi chập chững.
Nguyên Sa có mặt trên Sáng Tạo bộ cũ từ cuối thập niên ’50 nhưng mãi
đến ‘60 mới đứng ra chủ trương tờ Hiện Đại, hai số đầu của Hiện Đại
giống như Sáng Tạo bộ cũ, kể cả tên tuổi tác giả in ngoài bìa: Dẫn đầu
bởi Mai Thảo, Mặc Đỗ, Thanh Tâm Tuyền, chỉ khác ở chỗ có thêm nhóm các
giáo sư Nguyễn Duy Diễn, Lữ Hồ, Lê Xuân Khoa, Lý Quốc Sỉnh, Thuần Phong,
Lưu Trung Khảo, … và phần trị sự có ít ra là hai người: Thanh Nam, Thái
Thủy, trong khi Sáng Tạo chỉ có duy nhất một người quản trị là Anh Đặng
Lê Kim, hiện nay đang ở bên Úc. Nghĩ đến Nguyên Sa, viết về Nguyên Sa,
bài viết cũng sẽ cách quãng như sự có mặt của ông từ số đầu trở đi. Bài
thơ đăng trên Sáng Tạo bộ cũ, số 6, tháng 12, 1956 sẽ còn được nhắc nhở
như một tiêu biểu của thơ ông.
==========
Hãy Đưa Tôi Ra Bờ Sông
Nguyên Sa
Hãy đưa tôi ra bờ sông
Để tôi nhìn cho rõ
Tôi nhìn dòng nước chảy
Tôi nhìn tôi bơ vơ
Nhìn bờ sông tìm bờ sông bên kia
Khi lòng sông gặp biển
Hãy đưa tôi ra bờ sông
Để tôi nhìn tôi hò hẹn
Rồi tôi rủ tôi quên
Quên dòng nước chảy
Quên thời gian trôi
Bằng bước chân dòng sông
Không để lại gì trên cát
Tôi rủ tôi quên
Cả dòng sông trôi
Bằng bước chân phù sa
Không để lại gì
Trừ một người bơ vơ
Đã xây nhà bên bờ sông đất lở…
==========
Có mặt trên Sáng Tạo từ số 1 (10, 1956), đến số 31 (tháng 9, 1959)
Sáng Tạo ngưng xuất bản, Nguyên Sa đóng góp đủ thể loại. Về tiểu luận,
số 1: “Kiến thức rộng và chuyên môn.” Số 3: “Hồ Xuân Hương người lạ
mặt.” Số 8: “Vấn đề triết học căn bản.” Số 11: Triết học Kant.” Về
truyện ngắn: “Người con gái trong truyện liêu trai,” số xuân 1958). Về
thơ có từ số 2, số 6, … trên số cuối cùng có nguyên 3 trang, bắt đầu từ
trang 7 – sau bài luận thuyết “Nỗi buồn trong thơ hôm nay” của Thanh Tâm
Tuyền – , nhan đề là “20,” “Tháng Sáu trời mưa,” sự cộng tác của ông
với Sáng Tạo kể như sự cộng tác từ số đầu tới số chót. Nhưng Nguyên Sa
không có tên trong bộ biên tập của tờ báo. Không thể nói thơ Nguyên Sa
là thơ mới kiểu tiến chiến (1932-1945). Bài “Hãy đưa tôi ra bờ sông” ở
trên là một bài thơ tự do, không cốt yếu giữ vần hay nhịp điệu ở hai
câu, bốn câu, hay tám câu đi nữa. Nhịp thứ nhất chấm dứt ở sau câu thứ
sáu. Nhịp thứ hai bắt đầu từ câu bảy tới câu mười hai. Nhịp thứ ba là
sáu câu cuối cùng. Một bài thơ tự do từ nhịp điệu, ngôn ngữ, câu cú (câu
4 chữ, câu 5 chữ, câu 6 chữ, 7 chữ và 8 chữ) đến ý tưởng: Tôi rủ tôi
quên hết không để lại gì, trừ tôi ra. Mà tôi là ai? – “Một người bơ vơ
đã xây nhà bên bờ sông đất lở.” Đây là một bài thơ tự do có đặc tính
Nguyên Sa: nhẹ nhàng, những câu hỏi ngược duyên dáng, không lộ tính văn
học sinh tử chủ nghĩa, có lẽ vì ông là một nhà giáo dạy Triết, không
thấy gì là quan trọng nên cái quan trọng trở thành những câu hỏi đùa
không đợi trả lời.
==========
Paris có gì lạ không em?
Nguyên Sa
Paris có gì lạ không em?
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cảnh chim
Paris có gì lạ không em?
Mai anh vè giữa bến sông Seine
Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em?
Em có đứng ở bên bờ sông?
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo dòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
Anh sẽ thở trong hơi sương khuya
Mỗi làn tan một chút sương sa
Bao giờ sáng một trời sao sáng
Là mắt em nhìn trong gió đưa…
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
==========
Trong suốt ba năm cộng tác với Sáng Tạo, thơ văn Nguyên Sa không lẫn
với ai được, và vẫn nổi lên thành một hình tượng riêng, từ chữ dùng,
cách viết, lẫn nội dung những bài thơ. Trong thời gian Sáng Tạo ngưng
xuất bản, từ tháng 9, 1959 tới tháng 7, 1960, Nguyên Sa xuất bản tờ báo
riêng của ông: Tạp chí Hiện Đại số 1 ra mắt vào tháng 4, 1960. Các cây
bút chủ chốt của Sáng Tạo có mặt ngay từ số đầu của Hiện Đại: Mai Thảo
viết “Những người ở khách sạn,” Duy Thanh viết “Ngưỡng Cửa. Tới số 2
Thanh Tâm Tuyền gửi “Buổi sáng Chủ Nhật,” Mai Thảo “Luân,” Mặc Đỗ “Con
mắt có đuôi.” Viên Linh dạy học ở Ban Mê Thuột, không gửi bài, mà “Bài
Phượng Liên” lại có mặt, do một người bạn tự ý đưa vào. Nhưng bất ngờ,
sau tám tháng im lặng, Sáng Tạo tục bản, đề số 1 bộ mới, mở cuộc “thảo
luận bàn tròn,” chủ đề “Nhân vật trong tiểu thuyết” và chính thức công
bố Bộ Biên Tập, chỉ có [theo abc]: Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Mai Thảo,
Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp,
tám người. Nguyên Sa không có tên. Từ số 3 trở đi, cho tới khi đóng cửa,
số 9, trên Hiện Đại cũng không còn tên tuổi bài vở của Mai Thảo và
Thanh Tâm Tuyền nữa. Trong khi đó, Hiện Đại số tháng 7, 1960 ra cùng
tháng với Sáng Tạo số 1 bộ mới, có một nội dung rất phong phú, người ta
thấy phụ bản tranh in offset của Tạ Tỵ, bài vở của Bình-nguyên Lộc,
Hoàng Anh Tuấn, Mặc Đỗ, Nguyên Sa, Nguyễn Duy Diễn, Tạ Tỵ, Thanh Nam,
Đinh Hùng, Mặc Thu, Vũ Hoàng Chương. Và lại nữa, cũng tháng 7 này, một
diễn đàn văn học nghệ thuật mới lần đầu xuất hiện rất bề thế, khổ lớn và
in nhiều phụ bản đẹp, đó là tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi của nhà thơ Trần
Hồng Châu (Giáo Sư Nguyễn Khắc Hoạch – đang là khoa trưởng Đại Học Văn
Khoa), với bài vở của Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Đinh Hùng, do họa sĩ
Ngọc Dũng làm thư ký tòa soạn. Năm 1960 đã mở đầu một thập niên tươi
sáng của Văn Học Miền Nam.
=====
Nguyên Sa – ông thầy dậy Triết
Người ta nhớ đến ông dưới bút hiệu Nguyên Sa, một nhà thơ lãng mạn
nổi tiếng hồi cuối thập niên ’50. Thơ ông với những bài Aó lụa Hà đông,
Paris có gì lạ không em, Tuổi 13, Tháng sáu trời mưa … đã làm xao động
nhiều con tim ở tuổi học trò và về sau khi được chấp cánh bằng những
dòng nhạc đồng cảm của Ngô Thụy Miên thì phải nói sự phổ biến của nó đã
là những nét sinh hoạt thi ca làm nhẹ đi tính ác liệt của chiến tranh
vào đầu những năm ‘70 và đọng lại phần nào chất trữ tình lãng mạn của
những tâm hồn vốn coi thơ và nhạc là những nhu cầu cần có trong bối cảnh
một xã hội và đất nước đang đi vào mạt vận, nhân vật này giới học sinh
quen gọi là thầy Trần Bích Lan, một ông thầy chuyên dậy Triết năm cuối
cùng của bậc trung học dưới chế độ giáo dục của miền Nam. Một môn học mà
đa phần học sinh đều ‘xanh mặt’ vì tính trừu tượng khô khan của nó và
nhất là những thí sinh vừa hoàn tất bằng Tú tài 1 lại càng lo lắng vì sự
cho điểm nhỏ giọt của các giám khảo môn Triết mà nếu đạt được điểm
trung bình trong kỳ thi toàn phần thì cũng là một thành quả đáng khen
cho các cậu tú cô chiêu, cho nên đa phần các thí sinh muốn chắc ăn cho
đủ điểm đậu, không gì hiệu quả bằng ghi danh vào các lớp luyện thi, tại
tư gia hoặc tư thục khi người đứng kèm có tên Trần bích Lan, một giáo sư
trẻ vừa từ Pháp về, lại có sách giáo khoa do chính ông ta soạn cho hai
môn Lý luận học và Tâm lý học, được coi như cẩm nang cho môn Triết lớp
12 mà hồi đó còn gọi là năm Đệ Nhất.
Tôi được học thầy do một sự tình cờ nhờ thằng bạn học Chu văn An cho
biết niên khóa 58-59 thầy Bích Lan sẽ về dạy môn Triết. Số lớp rất hạn
chế vì chủ yếu dành cho học sinh của trường, chỉ còn hai lớp mở thêm để
nhận ai có tú tàí 1 và từ trường công chuyển sang. Tư thục thì vô
phương. Tôi trong số những người chót được nhận vào Lớp A6 đều là dân
‘tứ xứ’ nghe tiếng thầy đổ về ghi danh. Tôi thở phào vì không đủ tiền
học lớp dạy kèm của thầy, nhưng cũng buồn vì xa trường cũ gắn bó từ hồi
lớp 6, cũng là trường trung học nổi tiếng nằm sát bên hông, học hành
thời buổi này như đánh đu với tử thần, rớt tú tài anh đi trung sĩ/em ở
nhà lấy Mỹ nuôì con, nên chúng tôi bảo nhau cố mà đậu nếu phải đi lính
thì vắt vai cũng có một trung đội phòng thân.Tôi nhớ niên khóa ấy cả lớp
đều đậu, chỉ có một người rớt nhưng anh ta thi lại kỳ 2, đậu. Cho nên
quả không ngoa khi có ai nói học thầy ‘Big’ Lan (để phân biệt với thầy
giám thị trùng tên vốn nhỏ con) thì chỉ một năm là đủ, không cần gặp lại
thầy năm thứ hai. Cuối năm ấy tôi xa thầy, sau đi lính, đi tù và tình
cờ gặp lại thầy ở quận Cam khoảng giữa thập niên ’90, trước khi thầy qua
đời vài ba năm sau đó, chỉ một năm được gần ông giáo có người yêu tên
Nga, một nữ sinh viên cùng học ở Pháp, vừa ca ngợi bằng những vần thơ
bóng bảy mượt mà người về sau là vợ mình bằng các ngôn từ đầy mầu và
sắc,
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
(Tháng Sáu Trời Mưa)
nhưng cũng là nhà thơ gây sửng sốt một thời về những câu thơ phá thể,
những hình tượng ví von ít ai đưa vào thơ, nhất là người ấy là Nguyên
Sa và khuôn mặt mà tên gọi được ghép (theo tôi duy diễn) từ hai âm đầu
và cuối bút hiệu của ông,
Hôm nay Nga buồn
như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ…
……
Nhớ Thầy không dám lạm bàn về Thơ, chỉ biết thơ ông phổ biến trong giới
trẻ, đặc biệt là các nữ sinh mà nhiều cô không được học thầy và biết
dung nhan thầy đơn giản vì rơi rớt ở cấp tú tài 1. Tôi vốn mê và hay
chép tay các bài thơ tiền chiến, lúc này lại có vụ Nhân văn giai phẩm
nên hay đọc Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần.
Nhưng từ khi có hiện tượng Nguyên Sa xuất hiện trong thi ca miền Nam
thì phải nói tự nó đã dấy lên một luồng gió tươi mát và những hình tượng
trong thơ từ đây có thêm áo lụa Hà đông, mưa nắng Sài gòn, tuổi teen,
Paris/sông Seine, trùng hợp với thi sĩ họ Cung cũng từ Pháp về mang theo
dòng nhạc đượm chất thơ đã làm đám học trò chúng tôi vừa mê thơ vừa tò
mò đi tìm tác giả, nam sinh không nói làm gì nhưng các tiểu thư tuổi ô
mai trở lên rất thần tượng thi nhân, thầy Bích Lan cũng là một hiện
tượng trong giới mô phạm, có thể vì thầy là một nhà thơ và dạy môn hiếm
người đi vào chuyên nghiệp. Chưa hẳn, thi nhân họ Vũ cũng niên học này
đang dạy bên lớp đệ nhị C (ban văn chương), nhưng học trò vẫn trọng và
yêu thầy vì thơ chứ không vì tay nghề sư phạm. Trong khi ở Sài gòn tên
tuổi những ông thầy, Việt văn (Lưu Trung Khảo),Triết (Trần Bích Lan),
Anh văn (Nguyễn Ngoc Linh), Pháp văn (Bùi Hữu Sủng), Toán (Nguyễn Văn
Phú)… thì phải nói như những tên cúng cơm trong giới học trò khi cần
phải luyện thi để lấy cái ‘bằng lái’ đầu đời, với thơ tôi trộm nghĩ thầy
làm thơ là do động cơ thúc đẩy từ mối tình viễn xứ với người yêu cũng
là bạn học mà tôi quen nhiều cặp yêu nhau trong cảnh này bền duyên đến
ngày về cõi (khác hẳn bây giờ sao họ chia tay quá nhanh), nhưng đưa đẩy
thế nào dạy học mới là nghề kiếm sống và người ta nhắc khá nhiều về thầy
trong môi trường giáo dục, dù thầy có làm chủ biên một tạp chí văn học
và sáng tác thêm những bài thơ mới sau giai đoạn Paris có gì lạ không
em.
Thầy có lối dạy rất lạ dù chẳng tốt nghiệp trường sư phạm nào (mà về
sau có thời đi ngành này tôi cố bắt chước để câu học trò nhưng vẫn không
thể). Vào lớp Thầy chỉ có viên phấn và bảng đen, cái cặp da tôi biết
chắc vì tôi ngồi đầu bàn chỉ có tập giấy (có thể bản thảo) chứ không
đựng sách giáo khoa, giáo án, trong khi cái cặp của thầy Vũ thì gần bằng
sức nặng của tác giả Thơ Say, với thầy phấn phải nguyên cục, bảng phải
lau sạch, viên phấn chỉ sài nửa cục rồi cầm viên khác, cầm phấn như cầm
cọ, tấm bảng như pa-nô, thầy minh họa lời bằng chữ viết, nét chữ thầy
không bay bướm nhưng rất rõ nét chân phương, thầy có tài vẽ vòng tròn
bằng chỉ một nét, tròn hơn cả com-pa, chính vậy các từ ngữ về triết trừu
tượng khó hiểu cách mấy thầy vẫn làm thành đơn giản, dễ hiểu, nhập tâm.
Môn học có khô khan nhờ thầy trời cho có óc hài hước khá tinh tế pha
lẫn các mẩu giai thoại dí dỏm về thơ và những ngày ở Paris, lớp A6 chúng
tôi dần đầu về sĩ số tham dự cao cả năm, dù mới về nước sau khi ở Paris
cả 7 năm trời nhưng ngôn ngữ của thầy vẫn thuần Việt, ông ít khi pha
tiếng Pháp để diễn giải thêm những thuật ngữ triết học. Nếu cho thầy dậy
Việt văn chắc cũng hay. Tôi vẫn nhớ mấy mẫu tự in A,B thầy gọi A lớn B
lớn, nhưng abcd dùng cho các tiểu mục thầy hay gọi a (nhỏ), b (bé), c
(con), d (non) để học trò chúng tôi dễ phân biệt cho vui.
Giọng thầy người Hà-nội, âm lượng vừa đủ, vang nhưng ấm, những chỗ
thầy nhấn phải chú ý, key notes, key words ở những chỗ này, về sau lên
đại học tôi mới quen lối giảng của thầy. Thầy không cho bài tập, về nhà
đọc thêm sách thầy in, tất cả đã nằm trên bảng, tiếp thụ những điều thầy
nói trong lớp là đủ, anh nào ngủ gật thì ráng chịu. Nói vậy chứ chả ai
dám, ngược lại sức hấp dẫn của lối giảng và sự tiếp cận với Triết học
nhập môn nhờ thầy mà anh em chúng tôi yên tâm đi vào kỳ thi cuối năm,
năm học ấy qua đi. Những ngày xưa thân ái đi dần vào dĩ vãng. Không chờ
đến tháng sáu, thầy mất vào một ngày của tháng tư đen 40 năm sau trên
đất Cali. Tôi vẫn nhớ hình bóng của thầy như một người quen chơi gôn, mà
chiếc mũ trên đầu thầy hay đội. Trắng tay sau khi vốn liếng đầu tư mở
hai trường tư thục (Văn Học và Văn Khôi), ra hải ngoại thầy quay qua làm
tờ báo Đời để sống. Nhớ lại lần gặp ở quận Cam, tôi đang ngồi với mấy
bạn tù trong quán cà phê khu Phước Lộc Thọ, một người chỉ tay ông Nguyên
Sa vừa đi qua.
Tôi vội vã theo dấu chân thầy, tự giới thiệu là người học trò cũ. Nói
trường Chu Văn An thầy nhớ ra ngay. Thầy hỏi sang lâu chưa, tôi đáp mới
sang, hỏi tiếp chắc đi tù, dạ phải, mấy năm, hơn 12 năm, thầy lắc đầu
không hỏi gì thêm. Thầy vốn kiệm lời khi nói về chính trị, hồi tôi học
thầy cũng ít nhắc đến các lọại chủ nghĩa. Đi lính đủ điều kiện về ngành
tôi, chắc ngại làm thơ tâm lý chiến (dù có viết một bài Sân Bắn khi vào
Thủ Đức), thầy đi ngành…tẩm liệm tử sĩ (đơn vị Chung sự vụ, thầy có viết
một truyện dài). Thầy móc bóp tưởng lấy danh thiếp, thầy dúi vào túi
tôi chút tiền mặt, thầy mắc bận phải đi, cầm chút tiền uống cà phê, cần
gặp cứ bảo người ta chỉ cho. Tôi hơi đỏ mặt, thầy đi, cái dáng như một
người có bệnh, mà thầy bệnh thật, ít năm sau thầy mất.
Tôi quay lại chỗ bạn khoe ông thầy vừa cho tiền, hồi xưa nhận tiền
kiểu này dễ mặc cảm bị coi thường nhưng sau 75, hiểu theo nghĩa cho nhau
là quí dù nhà thơ như thầy lãng mạn đến đâu cũng biết tập quán này. Số
tiền nhỏ vậy mà được việc, bốn tờ hai chục (ví thầy chỉ có thế với ít
tiền lẻ), tôi chi một nửa đãi chầu cà phê, còn lại mua vài cuốn thơ và
băng đĩa tiểu bang tôi ở kiếm hoài không ra, cá nhân tôi còn một món nợ
với thầy khi làm một bài thơ để nhắc nhớ ngày ‘tháng sáu 13’ sĩ quan
chúng tôi đi trình diện học tập (tù) cải tạo, lúc này là mùa mưa, bài
thơ mang tên Tháng sáu trời mưa, không ngờ cái tựa vô tình trùng với bài
thơ nổi tiếng của Thầy. Để tạ lỗi tôi có làm tiếp Mưa Sài gòn, Nắng hạ
Cali cả hai bài đều được post trên vài trang mạng văn học, trong đó có
mấy câu,
Giờ này
Sài gòn đang mưa
Lại nhớ tháng sáu
Tháng sáu trời mưa
Mưa của Nguyên Sa
Một thời áo lụa
Đẹp. Buồn. Ấp ôm kỷ niệm.
Nhớ Thầy, viết về Thầy, Thầy Bích Lan là như thế. Ông đi vào văn học
sử như một nhà thơ lớn, và với đám học trò chúng tôi vẫn coi ông như một
nhà giáo dục nhân bản, một người thầy giản dị dễ mến, yêu nghề và không
gì vui hơn là thấy học trò của mình thành đạt, phục vụ tốt cho đời cho
xã hội bất kể nơi đâu.
Xin hết
Blog Saigon Xưa
No comments:
Post a Comment