Bếp
xưa ở Việt Nam quê tôi, nhất là những hình ảnh bếp xưa ở làng quê vẫn
thu hút ánh mắt nhìn của tôi vì bởi bếp có linh hồn của nó, nét độc đáo
riêng của bếp Việt, tôi luôn cảm nhận ra được cảm xúc trìu mến, ấm cúng
của tình gia đình. Ngày tháng dần trôi, có những đôi bàn chân phải xa
làng, xa bếp. Từ những cái lò đơn sơ này lại cho ra những món ăn được
coi như quốc hồn quốc tuý, âm thầm nuôi dưỡng tinh thần người Việt xa
quê như tôi.
Chiều
chủ nhật, tôi luẩn quẩn với mấy cây rau thơm, kinh giới, tía tô,... cho
đến khi ánh nắng chiều mùa hè hắt rọi xuống một màu tím dịu, hoàng hôn
muộn nhuộm cả sân vườn. Những con đom đóm xuất hiện chập chờn, chớp chớp
toả ánh sáng để tìm bạn tình trong những đêm hè trăng sáng, chúng là
những vì sao nơi trần thế của tôi.
Nhìn
kỹ đom đóm bay, mới thấy được sự lả lướt thật nghệ thuật của chúng, khi
di dịch thường không phát ra ánh sáng, chỉ khi chúng ngừng bay trong
tích tắc thì cái bóng đèn trên thân mình của chúng mới bừng lên ánh
sáng, ánh sáng này dùng để quyến rũ đối phương. Có khi mấy anh chàng đom
đóm chớp chớp ánh hào quang trước mặt nàng đom đóm thì liền bị mấy nàng
ngúng nguẩy bay đi chỗ khác như tỏ ý cho rằng mấy chàng là loài đom đóm
dỏm. Có một lời bài hát - đom đóm đâu ra chiều nay thật nhiều? Nay tôi
muốn hỏi thêm rằng - loài đom đóm "xưa" bao nhiêu tuổi đời trên quả địa
cầu xanh xinh đẹp này?
Tôi
chăm sóc mấy cây hoa, ngắm mấy con đom đóm tới chán, hái một mớ rau
mang vào nhà. Chiều cuối tuần rảnh rỗi tôi hay mở máy vi tính coi tin
tức ở quê nhà, thì bắt gặp hình ảnh cái lò bằng gạch men. Tôi thật vui
mừng vì đã rất lâu tôi chưa hề thấy lại cái lò men trắng xanh kiểu này,
nó giống y chang như cái lò mà gia đình tôi mua về sử dụng sau năm 1975.
Sau
năm 1975, nhà tôi nấu cơm bằng lò than để ở sau nhà. Sức nóng của than
thường làm đôi gò má của tôi ửng hồng, vì thế lúc ấy tôi không đẹp vì
lụa - mà tôi đẹp vì than. Khi được thấy anh tôi đi xa mua mang về cái lò
gạch xinh xắn này, tôi đã quý nó từ phút giây đầu gặp gỡ. Nó được mang
ra đặt ở phía tay phải ngoài ban công nhà tôi - cái ban công ngó xuống
bờ kinh Vĩnh An. Nó được mang về nhà tôi bởi củi rẻ tiền hơn than, điều
cần thiết cần phải có cho một cuộc sống đã nhiều lần thay đổi.
Anh
tôi mua một thước củi về, mang lên tầng thượng phơi cho khô, chẻ nhỏ để
dành đun dần. Tôi chất củi gọn gàng dưới chân lò, tôi phải học cách
nhóm lò, cách nấu cơm với củi - chỉnh lửa sao cho vừa để khi nồi cơm
chín tới, vừa đủ để lại một tí hương thơm của cơm cháy. Nồi cơm luôn
được nấu trước, kế đến mới tới thức ăn, hai lò đều bùng cháy, tiếng củi
cháy lách tách nghe vui tai, khi xào thức ăn thì lửa phải cao mới xứng
đáng hoà hợp với cái chảo bằng sắt đen tuyền của cha tôi - để cho ra một
đĩa rau muống tàu xào tỏi thật ngon lành.
Có
một lần vào mùa mưa, tôi nấu món canh gừng trong cái chảo sắt đen, khi
múc canh ra tô, tôi mới khám phá ra "cái đồ nhấc nồi" - đó là hai tấm
vải bố dày màu huyết dụ, mà nhà tôi dùng để nhấc nồi, chảo, để tránh
nóng bàn tay (không biết nó còn được gọi bằng tên gì khác không nhưng ở
trong nhà tôi thường gọi như thế). Không biết làm sao mà một cái lại nằm
im ru dưới đáy cái chảo canh gừng của tôi, vì cái chảo màu đen cho nên
tôi đã sơ ý không nhìn thấy màu vàng của canh gừng đã chuyển thành màu
huyết dụ. Anh tôi nhìn tôi với ánh mắt không mấy hài lòng, nhưng anh đã
không la rầy mà chỉ bảo tôi bỏ nồi canh đó đi, và dặn tôi lần sau cẩn
thận hơn. Buổi chiều hôm đó, tôi buồn buồn và thầm mắng yêu "đồ nhấc nồi
là cái đồ quỷ sứ " tại sao lại lăn vào chảo canh gừng, phá tôi chi?
Từ
cái bếp, khói lam chiều lan toả, màu khói trắng nhẹ nhàng bay lên rồi
tan biến trên dòng sông. Cơm chín được dọn ra trên cái bàn tròn, gia
đình tôi quây quần ăn cơm bên dòng kinh Vĩnh An hiền hoà thơ mộng. Trên
cái bếp, những nhóm lửa tàn phai của hai lò đều được tôi gom lại để nấu
một ấm nước sôi thật to để dành khi nguội uống. Sau buổi cơm chiều, mỗi
ngày tôi đều hoàn tất một cử chỉ cám ơn với cái bếp - đó là cái bếp luôn
được tôi lau chùi sạch sẽ, bóng loáng.
Cũng
từ cái bếp này, khói trắng bay cao, khói đen đọng lại trên mấy cái nồi,
dù có mấy cái tấm viền khói cho nồi, nhưng khói đen của củi vẫn hí ha
hí hửng len lỏi bám vào thành nồi, như chứng tỏ khói là sự hiện thân của
củi trên cái bếp này. Những cái nồi bám đầy nhọ đen, chỗ đậm, chỗ nhạt,
chỗ cao, chỗ thấp này,... lại không được mọi người nhìn nhận giống như
tranh vẽ của Picasso. Thế là tôi - một cô gái quê miệt vườn, ngày cuối
tuần phải đi xin tro trấu về cùng với xà bông tẩy trắng vết nhọ nồi, rồi
sau đó đem mấy cái nồi này ra ngoài ban công phơi nắng. Ánh nắng gắt
giữa buổi trưa rọi xuống mấy cái nồi bằng gang phản chiếu ra những tia
nắng li ti, như thể mấy cái nồi này nhe răng cười trêu ghẹo tôi.
Bếp
xưa ở Việt Nam quê tôi, nhất là những hình ảnh bếp xưa ở làng quê vẫn
thu hút ánh mắt nhìn của tôi vì bởi bếp có linh hồn của nó, nét độc đáo
riêng của bếp Việt, tôi luôn cảm nhận ra được cảm xúc trìu mến, ấm cúng
của tình gia đình. Ngày tháng dần trôi, có những đôi bàn chân phải xa
làng, xa bếp. Từ những cái lò đơn sơ này lại cho ra những món ăn được
coi như quốc hồn quốc tuý, âm thầm nuôi dưỡng tinh thần người Việt xa
quê như tôi. Ngày nay thỉnh thoảng bên lò bếp gas hiện đại, bất chợt tôi
vẫn nhớ thương chi lạ cái bếp xưa nơi quê nhà.
ST
No comments:
Post a Comment