Trong ngôn ngữ thông thường miền Nam Việt Nam trước
tháng tư 1975, tiếng "ngụy" nghĩa là "giả" ít thấy có ai
dùng tới.
Cái gì không phải thứ thiệt, không phải thứ
"chánh cống", không phải thứ "có cầu chứng tại tòa"... là
người ta gọi hoạch tẹt là "đồ giả", chớ không ai gọi là "đồ
ngụy" hết. Ví dụ như rượu giả, thuốc giả, vú giả, bạc giả, v.v.
Bởi vì từ ngữ hồi đó rất... thật!
Sau tháng Tư 1975, tiếng "ngụy" đã theo
gót... dép râu (Xin lỗi! Chỗ này văn chương nghe chỏi lỗ tai một chút, nhưng
rất... tả chân. Không thể viết "theo gót giầy" như xưa nay thường
viết, vì đối tượng ở đây toàn mang dép râu cả!) quân nón cối và quân mũ tai bèo
vào Nam làm cách mạng...
Sau biến cố, toàn dân miền Nam đều phải đi "học
tập" ba hôm. Chính trong ba hôm đó người ta mới nghe lần đầu tiên tiếng
"ngụy". Và nghe... đầy lỗ tai!
Vậy là đầu hôm sớm mai, tiếng "ngụy" được
nhét vào ngôn ngữ miền Nam một cách "ngang xương", không cần phổ
thông đầu phiếu! Mới đầu nghe lạ hoắc, không hiểu ý nghĩa sâu đậm của nó. Cũng
chẳng có ai giải thích. Mà ví dụ có ai to gan lớn mật đặt câu hỏi thì cán bộ
cũng chỉ giải thích... ngang như cua thôi!
Thành ra nhân dân miền Nam hiểu tiếng "ngụy"
một cách rất... tự do, và sử dụng tiếng "ngụy" rất... rộng rãi (Được
"giải phóng", có khác!). Thôi thì cái gì của miền Nam cũng đều biến
thành "ngụy" ráo. Để phân biệt với "cách mạng"!.. Thằng
ngụy, vợ ngụy, con ngụy, lính ngụy, chánh quyền ngụy, cơ sở ngụy, xí nghiệp
ngụy, công nhân ngụy, "hàm-bà-lằng" ngụy... Và người ta nghĩ một cách
rất đơn giản, rất thật thà: "Hễ thấy không có đóng con dấu ngôi sao đỏ thì
cứ xếp vào đồ ngụy, là ăn chắc!".
Thật ra, khi dán cái nhãn "ngụy" lên miền
Nam, "Đảng và Nhà Nước" muốn nhân dân "chủ yếu là nhân dân miền
Bắc" hiểu theo định nghĩa "ngụy" là giả, "giả nhân giả
nghĩa, giả đạo đức, giả yêu nước thương dân, "ngụy" là đoạt của người
ta mà nói là của mình, là bịp, là láo, là phiến loạn...
Về sau, khi nhân dân cả hai miền đều... mở mắt, tiếng
"ngụy" ít thấy dùng tới. Nhưng bây giờ thì mọi người đều nhận ra ai
mới đúng là ngụy. Lớp ngụy trang bị rơi xuống, những ngụy ngôn bị vạch trần,
thì chân tướng ngụy lòi ra rõ rệt, đến người mù cũng phải thấy!
Viết dài dòng để... "đả thông tư tưởng"
trước khi vào chuyện.
Ông H là thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ông làm
việc ở Tổng Tham Mưu.
Ông thuộc gia đình trung lưu. Hồi 1945, cha và anh của
ông đi kháng chiến rồi đi luôn ra Bắc. Từ đó, không được tin tức gì hết.
Mẹ của ông là giáo viên tiểu học, xem việc dạy dỗ trẻ
con là một thiên chức. Bà thường nhắc về người cha và người anh vắng mặt, nhứt
là người anh với những kỷ niệm đẹp của thời mà hai anh em còn ở chung với nhau:
"Anh Hai của con thương con lắm. Đi học về là cởi trần rồi cõng con chạy
cà bồng cà bồng quanh sân vừa chạy vừa hí rân như ngựa làm cho con cười hắc hắc.
Mà con thì hay nhõng nhẽo với anh Hai con, đi đâu cũng bắt nó cõng hết. Còn khi
nào con đòi cái gì không được, con hay vừa khóc vừa la để ba tưởng là anh Hai
chọc con, ba rầy ảnh! Tội nghiệp! Những lúc thấy con sắp sửa làm trận như vậy,
anh Hai con thường đưa đầu biểu con đánh nó đi chớ đừng khóc la, sợ ba
rầy!". Rồi bà kết luận: "Tánh tình nó tốt lắm!".
Ông lớn lên trong vòng tay người mẹ, được giáo dục
bằng tình thương, xem gia đình là căn bản, lấy đạo đức làm phương châm. Và ông
giữ mãi trong lòng sự mến mộ "người anh Hai lúc nào cũng làm vui lòng em,
lo lắng cho em, bảo vệ em".
Mãi đến năm 1973, mới được tin qua một người bà con
rằng cha mất đã lâu và người anh bây giờ là tướng của "ngoài đó".
Thật là bàng hoàng. Mẹ ông khóc hết nước mắt. Thời gian sau, bà nói: "Mẹ
chỉ mong cho mau hết giặc, để anh em con về sống bên mẹ yên vui như ngày xưa.
Chừng đó, mẹ mãn nguyện để theo ông theo bà...".
Mẹ ông qua đời vào giữa năm 1974, chưa kịp thấy cảnh
"hết giặc" ra làm sao và chưa kịp gặp đứa con làm tướng...
Mấy hôm sau ngày 30 tháng tư 1975, ông tướng nhờ người
bà con đưa lại nhà ông H. Xa cách đã ba mươi năm, nhưng hai anh em vẫn nhìn ra
được nhau. Bởi vì họ giống nhau như đúc. Sau mấy giây ngỡ ngàng, họ xà vào ôm
lấy nhau siết chặt. Cả hai đều không cầm được nước mắt. Bà H và bốn đứa con
"ba trai một gái, đã lớn hết, hai đứa đại học và hai đứa trung học cấp
hai" đứng nhìn cảnh hai anh em ôm nhau, cũng bồi hồi xúc động...
Sau đó là bữa cơm gia đình để hai anh em kể cho nhau
nghe những biến thiên của đời mình, của thời cuộc. Tiếp theo là ông tướng mang
hành trang lại ở với gia đình ông H, để có anh có em.
Ông bà H có hai cái nhà. Cái mà ông bà đang ở với hai
con học trung học, là loại vi-la lầu có sân lót gạch và vườn cây kiểng hồ cá
trang trí theo kiểu Nhựt. Nhà này do ông bà tự cất lấy hồi thời các con còn
nhỏ. Về sau, ông được thuyên chuyển ra miền Trung một thời gian. Ông đem hết
gia đình ra ngoài đó, để nhà cho Mỹ mướn. Nhờ vậy, mấy năm sau, ông mua thêm
một căn phố nhỏ cho hai đứa con trai lớn ở, khi chúng nó vừa vào đại học.
Sau khi đi xem nhà, ông anh bảo:
- To thế thì ở làm gì cho hết? (Bây giờ ông anh nói
pha giọng Bắc rất nhiều). Nguyên cái buồng ngủ thôi cũng chứa cả môt hộ bốn năm
người đấy!
Hôm sau, ông H được người anh khuyên:
- Chú làm cái vườn như thế này là phí đất. Đào lên đi
để trồng trọt khoai bắp cho các cháu có mà ăn. Phải biết tăng gia chứ!
Mới đầu, ông hơi phật ý. Nhưng, khi nhìn sang hàng xóm
thấy nhà nào cũng đào cũng xới kể cả dải đất hẹp té nằm dọc theo chân tường rào
phía ngoài đường, ông nghĩ: "Mình cũng phải làm như thiên hạ, cho yên
thân".
Vậy là cha con ông hè hụi đập nạy cạy khượi, gạch,
bê-tông, hồ cá... cho lòi đất rồi trỉa đậu trồng mì! Khu vườn Nhụt Bổn mà ông
Bà H đã tự tay xây đắp, bây giờ tan hoang lồi lõm giống như bãi đổ... xà bần.
Nhà ông H bây giờ mới thật sự mang nét cách mạng!
Ông anh "tên R" làm việc ở đâu, hỏi không
bao giờ nói. Chỉ thấy mỗi sáng có xe của cơ quan đến rước, chiều đưa về. Ông H,
sau khi khai lý lịch ở tòa đô chánh, tối ngày ngồi nghe tin tức qua ra-đi-ô. Bà
H không dám nấu nướng trong bếp bằng lò ga. Bà sợ làm như vậy nó... ngụy quá
đi, nên bà dựng ở hàng ba mấy cục gạch rồi nấu bằng than củi bằng lá khô... Bà
kê cạnh đó một cái bàn thấp để chén đũa mắm muối, còn nồi niêu dao thớt thì cứ
bỏ nằm lỏng chỏng dưới đất bên cái thau nhôm lớn đựng nước để dùng cho việc nấu
nướng rửa ráy. Nước lấy từ ống cao su trước đây dùng tưới vườn. Nước dơ thì cứ
tạt... cha nó ra sân. Bà H ngồi chồm hổm làm bếp, chổng khu thổi lửa khói bay
um tùm làm đôi khi bà nhớ thời thơ ấu – bốn mươi mấy năm về trước – hồi ở dưới
quê với bà ngoại, bà hay nhìn bà ngoại nấu cơm như bà làm bây giờ. Chỉ khác là
hồi đó chưa có cách mạng! Ông anh có vẻ hài lòng về tác phong của bà H, nên khen:
"Cô thật là sớm giác ngộ!".
Một hôm, đài phát thanh gọi các sĩ quan ngụy đi trình
diện học tập. Và nói rõ: "Đem theo tiền ăn cho một tháng". Ông H lo
lắng, hỏi ý kiến ông anh thì được trả lời:
- Chú cứ yên tâm đi học tập. Anh bảo đảm không sao
hết.
Vậy là ông H hun vợ con, xách ba-lô lên đường, còn
dặn:
- Ở nhà có bác Hai. Mẹ con bây cần gì thì nhờ bác,
nghen.
Một tháng sau, không thấy ông về, bà H hỏi ông anh thì
được trấn an một cách rất bình thản:
- Cô yên tâm. Vài hôm là về thôi!
Cứ thế, vài hôm rồi vài hôm... dài dài... Bà H nóng
lòng, chạy đi gặp mấy bà bạn cũng là vợ sĩ quan, mới hay rằng có thể chồng đã
bị chở đi luôn ra ngoài Bắc. Bà lau nước mắt, về quây quần với mấy con, ngồi
đợi ông anh. Gặp ông, bà mếu máo:
- Họ chở nhà tôi đi mất rồi...
- Đi đâu mà mất? Còn tập trung cải tạo ở trong Nam chứ
phải biệt xứ đâu mà mất? Đi học tập chứ đi tù đâu mà cô sợ.
- Nghe đồn trong trại khổ lắm. Nhờ anh can thiệp cho
nhà tôi về. Dù gì anh cũng là tướng và cha đã hy sinh vì cách mạng.
- Cách mạng không phải như ngụy đâu cô! Không có
chuyện móc ngoặc bè phái. Không có chuyện tư vị nể nang. Luôn luôn xử sự có
tình có lý. Chú ấy cứ học tập tốt là về ngay thôi! Nói thế chứ... để tôi xem có
làm gì được không.
Một hôm, ông anh họp các con ông H lại, khuyên:
- Ba các cháu là ngụy. Cách mạng khoan hồng gởi đi học
tập cải tạo. Ba các cháu có sớm được trả về hay không là còn tùy thuộc ở thái
độ học tập của ba các cháu. Và cũng tùy thuộc ở trình độ giác ngộ cách mạng của
má các cháu và các cháu nữa.
- Vậy, mình phải làm sao?
- Dễ thôi! Bác sẽ giới thiệu các cháu vào đội thanh
niên xung phong, nếu các cháu muốn giúp ba các cháu.
- Vô đó để làm cái gì, thưa bác?
- Để phục vụ nhân dân theo khả năng của mình. Nếu các
cháu có tinh thần phục vụ cao, Nhà Nước sẽ cho điểm tốt trong việc cứu xét
trường hợp của ba các cháu.
Sau một lúc bàn tính, cả bọn bốn đứa đều đồng ý...
xung phong.
Bốn đứa được thâu nhận nhưng không cùng ở chung một
đơn vị. Phân tán chúng nó ra, cô lập từng đứa một, để dễ theo dõi kiểm soát,
tránh mầm móng phản loạn... Nhà Nước đi một nước cờ thật cao!
Chúng nó được đưa đi đào đất đắp nền ở các vùng kinh
tế mới hay đi đào kinh làm thủy lợi. Lâu lâu mới về thăm nhà một vài hôm. Nhưng
không bao giờ cùng về một lúc. Và đứa nào về cũng xác xơ hốc hác, tay chân ghẻ
lở giống như bị đi đày! Đứa con gái trước đây học năm thứ bảy dương cầm ở quốc
gia âm nhạc, bây giờ tay cứng còng, không đánh nổi một bài tầm thường của hồi
đó. Bà H nhìn các con mà đứt ruột. Cho nên mỗi lần đứa nào về, bà cũng chạy lo
thuốc men và nấu nướng cho ăn uống tẩm bổ. Chỉ có ông anh là hài lòng và cho
rằng đó là thành quả tốt đẹp của lao động!
Một hôm, ông anh bảo người em dâu:
- Bây giờ các cháu đã có Nhà Nước lo. Cô giữ làm gì
đến hai cái nhà? Đây là lúc mà cô phải chứng tỏ trình độ giác ngộ cách mạng của
mình bằng cách hiến cái nhà này cho Nhà Nước để làm cơ quan phục vụ nhân dân.
Như vậy, chú ấy có cơ được về sớm.
Sau vài phút suy nghĩ, bà H chỉ bằng lòng cho Nhà Nước
mượn thôi.
- Ừ! Thì cho mượn cũng được, tôi nghĩ thế. Để tôi liên
hệ với các đồng chí ấy xem sao.
Vậy là tuần lễ sau, bà dọn về căn phố nhỏ ở cách đó độ
mười lăm phút xe đạp, nhưng thuộc về một quận khác. Sự chuyển hộ (nghĩa là dời
chỗ ở, địa chỉ) không gặp khó khăn, nhờ ông anh cách mạng (Trong thời này, muốn
chuyển hộ phải làm đơn xin phép nơi mình sắp dọn đến. Phải "có lý do chánh
đáng" và điều này phải được chứng nhận bởi chánh quyền nơi mình đang ở!
Khi đã được chấp thuận (có ký tên đóng dấu) đương sự
phải vác đơn đó về trình cho chánh quyền nơi đang ở để... xin phép được di
chuyển. Khi được chấp thuận - ký tên đóng dấu- mình mới được quyền dọn đi!
Rắc rối như vậy nên lúc nào cũng có một sự giải thích
rất "có trình độ": "Đằng kia có cho anh vô thì ở đây tôi mới cho
anh ra. Chớ tôi cho anh ra mà đằng kia không cho anh vô thì anh... đi
đâu?".
Rõ như vậy, nhưng nhiều khi vác đơn đến "đằng
kia" trước, thì bị từ chối và dĩ nhiên được giải thích cũng rất "có
trình độ" không kém: "Anh phải xin phép nơi anh đang ở trước rồi mới
đến đây sau. Anh có được cho đi thì tôi mới nhận cho anh đến. Chớ bảo tôi nhận
cho anh đến, trong lúc anh chưa được cho đi thì làm sao được? Phải có đi rồi
mới có đến chớ! Dễ hiểu thôi!".
Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy nên việc chuyển hộ
thật là khó khăn.
Trong trường hợp chuyển từ tỉnh sang tỉnh hay từ vùng
sang vùng thì khỏi nói, thật là "trần ai gian khổ"!).
Ông tướng có "động viên" một số đồng chí trẻ
trong cơ quan đến phụ dọn nhà cho bà H. Và có cho mượn một chiếc xe
cam-nhông-nét (cũng của cơ quan) nên việc dọn nhà cũng nhanh. Sau đó, ông anh
cho bà ký tên tờ ủy quyền để ông anh thay mặt bà quản lý cái nhà lớn mà ông
đang ở. Bởi vì bây giờ, bà đã chuyển hộ thì mặc nhiên ông anh trở thành chủ hộ
ở ngôi nhà đó, mà muốn sử dụng cái nhà thì phải có sự ủy quyền của chủ nhà.
Mười lăm ngày sau, bà H được biết là nguyên cả tầng
trệt nhà của bà đã trở thành "tổ gạo", còn ông anh thì vẫn ở một mình
trên lầu. Nghe nói bà tướng có vào thăm chồng một lần, ở độ mười lăm hôm rồi
trở về Hà Nội. Không hiểu sao ông tướng không có đưa bà vợ lại thăm cô em dâu.
Cách mạng có khác!
Bẵng đi một thời gian dài gần cả năm, một hôm ông anh
ghé nhà thăm bà H để báo tin đã tìm ra trại cải tạo của người em ở ngoài Bắc và
chỉ vẽ cho bà cách thức xin đi thăm nuôi, đường đi nước bước, xe cộ vv... và
nhứt là những thứ cần thiết như lương khô quần áo. Nghe như vậy, bà H đã đoán
ra phần nào đời sống của chồng ở ngoài đó, nên bà rớt nước mắt hỏi:
- Sao trước đây anh không nói rõ để tôi lo cho nhà tôi
có đầy đủ phải hơn không?
- Chuyện Nhà Nước, đâu nói ra được. Cô phải hiểu như
thế chứ!
- Cái gì cũng che đậy. Cái gì cũng giấu diếm. Nhưng
lần hồi thiên hạ đều biết hết. Bộ anh tưởng thiên hạ đui sao?
Đến đây bỗng nghe tiếng bà hàng xóm la lớn: "Đi
đâu đó nữa? Mấy bữa nay tao nói mầy kê lại dùm mấy ông Táo kẻo mấy ổng sụm
xuống thì không còn khỉ gì để nấu nướng... mà mầy cứ ăn rồi là xách đít đi
hà!".
Giọng người con trai: "Bộ má tưởng con đi chơi
hả?".
Giọng bà hàng xóm: "Chớ đi đâu mà ngày nào cũng
đi, mầy nói tao nghe coi!". Giọng người con, có vẻ hảnh diện, nói rời ra
từng tiếng: "Con-đi-phục-vụ-nhân-dân!".
Giọng bà hàng xóm, tức tối: "Phục vụ nhân dân!
Phục vụ nhân dân! Con gái mẹ mầy cũng là nhân dân đây nè! Mầy phục vụ cho nó
đi! Kẻo không chổi chà nó đơm lên đầu bây giờ!".
Ngừng một lúc, lại nói: "Cha... Lúc này nói giọng
cách mạng quá há! Phải mà! Con mẹ buôn gánh bán bưng này hăm mấy năm nay nó kềm
kẹp mầy quá mà! Nó nhét cho mầy ăn để mầy lớn! Nó ép mầy học để mầy khôn! Nó ác
ôn quá phải hông? Nó ngụy quá phải hông? Nó giả nhơn giả nghĩa quá phải
hông?"
Nghe đến đây, ông tướng nhăn mặt:
- Ăn với nói! Rõ là không có trình độ!
Rồi ông đứng lên:
- Tôi phải vào cơ quan. Bao giờ cô được phép đi thăm
nuôi, gặp chú ấy nhớ bảo tôi nhắn chú ấy luôn vững tin vào sự sáng suốt của
Đảng và Nhà Nước. Ta khác ngụy ở chỗ xử sự có tình có lý và lúc nào cũng khoan
hồng đối với những người biết quay về với nhân dân.
Bà H làm thinh, nhưng nhìn người anh chồng chỉ có nửa
con mắt!
Lúc đó, nghe tiếng thằng con trai nhà hàng xóm:
"Rồi đó! Con kê lại mấy ông Táo rồi đó!". Giọng bà mẹ, vẫn còn hậm
hực: "Dữ hôn! Có bao nhiêu đó mà cũng phải đợi tao nhắc năm lần bảy lượt!
Thôi! Mầy đi phục vụ nhân dân của mầy, đi. Chiều, vác mỏ về, con mẹ ngụy này nó
nấu cơm cho mà ăn".
Từ ngày dọn về đây, bà H đi làm ở tổ hợp may thêu gần
đó. Cũng phải đi làm như thiên hạ để đừng bị để ý theo dõi, chớ thật ra bà chưa
đến nỗi túng thiếu nhờ đã cất giữ nữ trang trong nhà thay vì gởi ở ngân hàng.
Bây giờ, lâu lâu bà bán một vài chỉ...
Bà hàng xóm (tên là bà Năm) có cái sạp cháo lòng ở đầu
ngõ. Sáng nào, bà cũng đi bộ theo thằng con trai đạp xe ba bánh chở thùng tô
dĩa muỗng đũa, thùng lòng dồi gia vị, nồi cháo lớn bằng nhôm, lò dầu hôi và mấy
can nhựa đựng nước rửa chén... ra cây trứng cá nằm trên lề đường Phan Đăng Lưu
(tức là đường Chi Lăng hồi trước).
Ở đây, có cái sạp gỗ dựng đứng và bốn năm cái ghế gỗ
nhỏ được... xiềng vào gốc cây trứng cá. Hai mẹ con mở ống khóa, hạ cái sạp rồi
kê ngay ngắn dưới tàn cây. Xong, thằng con về nhà lấy xe đạp, đạp đi "phục
vụ nhân dân" cho tới tối. Thành ra, đến trưa khi bán hết nồi cháo - bà chỉ
bán có buổi sáng - bà thâu xếp dọn dẹp một mình ên, rồi đẩy xe ba bánh chở đồ
nghề về nhà (Bà không đạp vì không biết đi xe đạp!).
Cứ vài bữa, bà lại mang biếu bà H một tô cháo lòng. Bà
biết bà H là vợ thiếu tá quốc gia và chồng đi học tập nên bà hay tới lui thăm
viếng để an ủi. Bà H thật cảm động. Có hôm bà nhắc chừng:
- Bà Năm cẩn thận. Có thể tụi nó theo dõi.
- Ối... Cái lũ cô hồn đó tôi đâu có sợ, cô Hai. Hồi
tụi nó mới vô, bắt mình làm tờ "báo công báo tội". Tôi phát ghét nên
khai là tôi tội lỗi đầy đầu bởi vì gần hai chục năm nay tôi bán cháo lòng cho
ngụy ăn chớ không cho cách mạng ăn! Vậy mà có thấy thằng nào đụng tới tôi đâu,
cô Hai!
- Coi vậy chớ cũng nên coi chừng, bà Năm à! Nhứt là
khi bà rầy la thằng nhỏ, nói đụng chạm tới họ quá, không nên.
- Tụi nó đã coi mình là ngụy thì cứ thí mạng cùi chửi
cho sướng miệng. Tội vạ gì mà nín thinh? Há?
Nói xong, bà Năm nhếch mép cười, làm như bà đang thách
đố cách mạng vậy!
Khi bà H được giấy phép đi thăm nuôi chồng, bà báo tin
cho bà Năm và nhờ bà Năm coi chừng nhà giùm. Bà Năm mừng rỡ, làm như ông H là
người nhà:
- Dữ hôn! Tới bây giờ mới cho con người ta đi thăm
nuôi. Quân ác ôn! Được rồi, cô Hai cứ yên tâm, tôi giữ nhà cho. Mà chừng nào cô
Hai định đi?
- Chắc mười hôm nữa, bà Năm à. Để có thì giờ lo cho
đầy đủ. Chớ gấp rút quá thì quên trước quên sau...
- Cô Hai nói phải đó. Đi ra tới ngoài Bắc chớ bộ gần
gụi gì hay sao?
Ngừng một chút, bà Năm cầm tay bà H lắc nhẹ:
- Cần gì thì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với
nhau mà...
Bà H xúc động, lí-nhí "cám ơn" mà nước mắt
chảy quanh.
Lạ quá! Chỉ có mấy tiếng "mình với nhau" mà
sao nghe ấm cúng vô cùng. Nhứt là trong hoàn cảnh này, trong giai đoạn này.
"Mình với nhau" là sự nhận diện của những người cùng đứng về một
phía. "Mình với nhau" nói lên sự cảm thông của những người cùng cảnh
ngộ, cần nương tựa vào nhau, nâng đỡ nhau để sinh tồn. "Mình với
nhau" là tình người không dị biệt giai cấp. Cho nên, khi mở rộng vòng tay,
bà Năm cháo lòng chỉ cần nói có mấy tiếng đó thôi là quá đầy, quá đủ...
Hai hôm trước ngày bà H khăn gói đi thăm chồng, bà Năm
qua nhà đưa một lon ghi-gô được ràng chằng chịt bằng dây thun:
- Cô Hai cho tôi gởi ổng lon thịt chà bông. Tôi làm có
hơi mặn để ăn cho lâu. Tôi ém chặt và ràng kỹ, cô Hai đừng lo đường xa nó sút
sổ. Cô cho tôi gởi lời thăm ổng, nghen.
Bà H "cám ơn"mà có cảm tưởng như bà Năm là
người trong quyến thuộc!
Trong khi đi ra cửa, bà Năm còn quay lại nói:
- Cô Hai đi yên tâm. Tụi nhỏ của cô có về chơi thì tôi
lo cơm nước cho hết. Cô nhớ viết ít chữ để lại cho tụi nó biết, nghen!
Bà H gật gật đầu, nhìn theo mà thấy bà bán cháo lòng
đó còn cao cả gấp mấy mươi lần người anh chồng làm tướng của cách mạng!
Đi thăm chồng về, bà H như già đi năm bảy tuổi. Mắt bà
sưng húp, tóc tai rối bời, mặt mũi hốc hác. Bà Năm nhìn bà H, động lòng chảy
nước mắt. Ngồi xuống bên bà H, bà Năm hỏi:
- Sao, cô Hai? Khổ lắm phải không?
Bà H mếu máo khóc, chỉ gật gật đầu chớ không nói được
một lời. Bà Năm nhích lại gần, choàng tay ôm vai bà H, chửi đổng:
- Mẹ bà nó! Quân ác ôn!
Bà H bỗng quay sang ôm chầm lấy bà Năm, khóc nức nở.
Vừa khóc vừa cố gắng nói, câu nói đứt ra từng khúc:
- Ảnh... ốm... đến nỗi... tôi... nhìn... ảnh... không
ra...
Đến đây, bà Năm cảm động nghẹn lời. Bà chỉ còn biết
vuốt vuốt lưng bà H, giống như bà đang dỗ về người em gái.
Hôm sau, bà H đội nón lá cầm cái thơ ông H viết cho
người anh để gởi gắm vợ con, đi bộ về cái vi-la của bà ở quận kế bên. Bà cố
tình đi bộ, vì bà nghĩ đến chồng. Đối với những gian khổ cùng cực mà chồng bà
đã chịu đựng từ bao nhiêu năm nay - theo lời kể lại của ông H - thì sự đi bộ
của bà không thấm thía vào đâu hết. Nhưng, khi bà đi bộ, bà tưởng chừng như bà
đang chia xẻ một phần nào những khổ dịch của chồng, người tù cải tạo.
Vi-la của bà, bây giờ thấy khác trước. Tường rào đã
xây lên cao. Cổng song sắt được gắn thêm lưới sắt ô vuông. Nhìn vào trong không
còn tổ gạo, mà sân thì đã được tráng xi-măng lót gạch khía sạch sẽ.
Thấy có bóng người, bà H bấm chuông. Có giọng đàn bà
hỏi vọng ra, giọng Bắc:
- Ai đấy?
- Dạ... tôi.
Một bà cỡ tuổi bà H bước ra hất hàm:
- Chị muốn gì?
- Thưa... Tôi muốn tìm ông R. Nhà tôi có viết cho ổng
cái thơ...
- Đồng chí R à? Đồng chí ấy đã phục viên lâu rồi. Đồng
chí bán nhà cho chúng tôi, xong, dọn hết về thủ đô. Thế... chị là gì của đồng
chí ấy?
Bà H choáng váng mày mặt, chỉ còn kịp tỳ người vào trụ
cổng để khỏi quị xuống. Tuy nhiên, bà vẫn nghe tiếng mình nói:
- Dạ... Tôi... À... Không!
Rồi câm luôn. Thấy bên ngoài làm thinh, bà người Bắc
bỏ đi vào trong, nhưng vẫn nói vói ra:
- Đồng chí R hiện ở đâu, tôi cũng không biết. Thôi,
chị về đi!
Phải một lúc lâu sau, bà H mới hoàn hồn. Bà đứng thẳng
nhìn vào trong. Bà bỗng thấy bà đã biến thành một người khác. Một người cứng
rắn hơn, lì lợm hơn. Một người sẽ dám nhìn thẳng vào mặt kẻ địch mà chửi như bà
Năm cháo lòng. Ví dụ có người anh chồng đứng trước mặt bây giờ, bà sẽ xáng cho
anh ta một bạt tai – điều mà trước đây bà chẳng bao giờ dám làm dám nghĩ!
Bà H vẫn đứng thẳng, nhìn vào trong. Mắt mở to, ráo
hoảnh. Môi mím chặt. Tay bà vò nát cái thơ của chồng viết. Bà vò nó mà bà không
hay! Bà chỉ cảm thấy một sự căm thù đang dâng lên làm bà trạo trực. Bà nghe
buồn nôn!
Phải rồi! Bà muốn nôn mửa lên những giả dối gian manh
mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trong đầu. Bà muốn nôn mửa lên những lời
lẽ giả nhân giả nghĩa mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trên đầu môi chót
lưỡi.
Bà muốn nôn mửa lên những thủ đoạn xảo quyệt được ngụy
trang bởi những chiêu bài yêu nước thương dân, có nghĩa có tình... mà bọn chúng
nó thằng nào cũng sẵn sàng hành động. Bà muốn... Bà muốn...
Bà H liệng cái thơ nhàu nát xuống đất, phun nước miếng
nghe cái phụt một cách khinh bỉ, rồi cúi lượm cái nón lá bỏ rơi khi nãy đội lên
đầu, đi thẳng.
Mấy năm sau, ông H vẫn "còn được cải tạo",
bà H lâu lâu vẫn lặn lội đi thăm nuôi chồng, hai thằng con lớn vượt biên rồi
định cư ở Úc, đứa con gái lấy chồng đánh cá ở Minh Hải, thằng con út cặp với
con bạn cùng xóm mở quán cà phê vỉa hè cạnh hàng cháo của bà Năm. Còn bà Năm
vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi Nhà Nước!...
Tiểu Tử
No comments:
Post a Comment