Vasili Arkhipov đã mạnh mẽ phủ quyết quyền khai hỏa vũ khí nguyên tử của chỉ huy tàu B-59. (Ảnh: alchetron.com)
Cách
đây 56 năm, thế giới suýt bị hủy diệt vì chiến tranh nguyên tử giữa Mỹ
và Liên Xô trong 13 ngày cân não căng thẳng từ cuộc khủng hoảng tên lửa
Cuba. May mắn thay, có một người đã cứu vãn khỏi tình thế nguy hiểm ấy.
Đó là người anh hùng thầm lặng Vasili Alexandrovich Arkhipov.
Để hiểu tầm quan trọng của quyết định ấy, chúng ta cần quay trở lại cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Mồi lửa nhen nhóm
Tháng
5/1962, Tổng Bí thư Liên Xô Nikita Khrushchev và Chủ tịch Cuba Fidel
Castro đã đạt được thỏa thuận “bí mật” cho phép Liên Xô bắt đầu xây dựng
các trận địa tên lửa ở Cuba, trong đó có tên lửa đạn đạo tầm trung và
tầm xa mang đầu đạn nguyên tử.
Năm 1962, Liên Xô bắt đầu xây dựng lắp đặt tên lửa đạn đạo mang đầu đạn nguyên tử tại Cuba.
Vào
thời điểm này, Mỹ có tên lửa nguyên tử ở Thổ Nhĩ Kỳ và Ý có thể tấn
công Moscow trong vòng 16 phút sau khi được phóng. Liên Xô khi ấy dù có
rất nhiều vũ khí nguyên tử hoàn toàn có khả năng hủy diệt các mục tiêu
của đồng minh Mỹ trên khắp châu Âu, nhưng lại không có khả năng tiêu
diệt các mục tiêu ở Mỹ. Vì vậy, Liên Xô cần phải có vũ khí nguyên tử ở
Cuba, để lấy lại sự cân bằng trong Chiến tranh Lạnh.
Từ một bức ảnh do thám
Mùa
thu năm 1962, một chiếc máy bay U-2 của Mỹ bay qua Cuba để tìm cách xác
nhận thông tin tình báo về các trận địa tên lửa của Liên Xô ở San
Cristobal (Cuba).
Ngày
14/10/1962, chiếc U-2 trở lại Mỹ đem theo hình ảnh xác thực các vị trí
Liên Xô bí mật lắp đặt tên lửa đạn đạo tầm xa và tầm trung mang đầu đạn
nguyên tử, cách bờ biển Florida của Mỹ chỉ khoảng 90 dặm. Một ngày sau,
những bức ảnh này được đặt lên bàn làm việc của Tổng thống J.F. Kennedy.
Ngày
15/10/1962 được coi là ngày khởi đầu cho Cuộc khủng hoảng tên lửa
nguyên tử nghiêm trọng nhất trong lịch sử, kéo dài 13 ngày vào đúng thời
điểm cao trào trong Chiến tranh Lạnh, khiến tình hình thế giới trở nên
vô cùng căng thẳng trước nguy cơ nổ ra một cuộc chiến tranh nguyên tử.
Ngày 22/10, Tổng thống Kennedy tuyên bố: “Vũ
khí nguyên tử tên lửa đạn đạo có sức tàn phá khủng khiếp, bất kỳ việc
triển khai đột ngột nào cũng có thể được coi là mối đe dọa nhất định đối
với hòa bình thế giới … Tên lửa chiến lược của chúng ta chưa bao giờ
được chuyển tới lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào dưới lớp vỏ choàng bí
mật và dối trá”.
Hải quân Mỹ thực hiện chiến dịch kiểm soát nghiêm ngặt các vũ khí vận chuyển vào Cuba bằng đường biển. (Ảnh: learning-history.com)
Tổng
thống Kennedy cũng công bố những hành động mà chính phủ Mỹ thực hiện để
đáp trả việc khai triển vũ khí nguyên tử của Liên Xô tại Cuba, bao gồm
“một chiến dịch kiểm soát nghiêm ngặt” tất cả các thiết bị quân sự
chuyển tới Cuba bằng đường biển. Thuật ngữ “kiểm soát” để nhằm chỉ hành
động “phong tỏa” của hải quân Mỹ, chặn mọi ngả đường dẫn vào bờ biển
Cuba.
Ngày
24/10, Tổng thống Kennedy ra lệnh khai triển hàng trăm tàu chiến, gồm 4
tàu sân bay và nhiều máy bay tuần tra, máy bay săn tàu ngầm để phong
tỏa bờ biển Cuba, đồng thời thông báo cho phía Liên Xô rằng, Mỹ sẽ thả
bom chìm cảnh cáo nếu họ xác định đúng các tàu ngầm của Liên Xô và buộc
tàu ngầm phải trồi lên mặt nước và quay trở về.
Có
một điều mà Tổng thống Kennedy không biết được rằng, thời điểm đó Tổng
bí thư Khrushchev đã gửi một biên đội tàu ngầm có trang bị vũ khí hạt
nhân đang trên đường tới Cuba. Tất cả các tàu ngầm này đều được quyền tự
quyết khai hỏa phóng ngư lôi nguyên tử nếu họ mất liên lạc với Moscow.
Đòn cân não
Ngày
1/10/1962, một đội gồm bốn tàu ngầm tấn công hạt nhân Foxtrot diesel di
chuyển từ căn cứ Bắc Cực, gồm chiến hạm B-59, và ba tàu chị em, B-36,
B-4 và B-130 thuộc Lữ đoàn tàu ngầm số 69 bí mật tìm đường băng qua hàng
rào phong tỏa của tàu chiến Mỹ để tiếp cận Cuba..
Chỉ
huy của nhóm tàu là thuyền trưởng Vasili Alexandrovich Arkhipov đi trên
chiếc B-59 nhưng không chỉ huy nó. Thuyền trưởng của chiếc B-59 là
Valentin Grigorievitch Savitsky. Ba trong bốn chiếc tàu ngầm ấy, chỉ cần
sự đồng ý của chỉ huy tàu và sĩ quan chính trị là có quyền pha't động
“vũ khí đặc biệt” trên tàu.
Tuy
nhiên, trên chiếc B-59, cần phải có sự đồng ý của chỉ huy tàu, sĩ quan
chính trị và “thuyền trưởng thứ hai”, Vasili Arkhipov. Thêm nữa, gần như
không có thủy thủ nào biết trên tàu của họ mang theo một quả ngư lôi
đầu đạn nguyên tử, có sức mạnh hủy diệt tương đương với quả bom nguyên
tử thả xuống Hiroshima.
Không có thủy thủ nào trên B-59 biết trên tàu có vũ khí nguyên tử có sức hủy diệt như quả bom tại Hiroshima. (Ảnh: dailystar.co.uk)
Ngày
27/10/1962, trên hải phận quốc tế, lực lượng đặc nhiệm của tàu khu trục
và máy bay tuần tra Mỹ đã phát hiện tàu ngầm B-59 khi nó đang nổi lên
mặt nước để sạc ắc quy. Để tránh sự truy lùng của máy bay Mỹ, B-59 buộc
phải lặn sâu xuống nước khi ắc quy chưa được nạp đầy.
Một
cuộc vây lùng tàu B-59 với sự tham gia của 11 tàu khu trục Mỹ bắt đầu
chiến dịch “quấy rối” bằng sóng siêu âm và thả bom chìm xung quanh chiếc
B-59, như một dấu hiệu cho thấy đối phương muốn nó phải trồi lên mặt
nước.
Lẩn
trốn trong lòng đại dương, chịu áp lực bởi những quả bom chìm khiến tàu
B-59 rung lắc dữ dội, bên trong nó là một trận chiến nảy lửa của đội
ngũ cấp cao chỉ huy tàu, cùng thủy thủ đoàn hoàn toàn kiệt quệ vì căng
thẳng và mệt mỏi.
Quan
ngại là người Mỹ không hề biết mục tiêu họ đang truy kích dữ dội ấy là
một tàu ngầm có mang theo đầu đạn nguyên tử và chỉ huy tàu B-59 khi ấy
đang lưỡng lự: Liệu có khai hỏa?
Căng thẳng tột cùng
Trước
sự bao vây của các chiến hạm Mỹ, tính tới thời điểm này, tàu B-59 đã
lặn sâu dưới biển gần 4 tuần và gần 1 tuần mất liên lạc với Moscow, các
thành viên trên tàu hầu như kiệt sức và không nhận thức được hoàn cảnh.
Điều
quan trọng là B-59 được thiết kế để chịu được điều kiện băng giá của
Bắc cực nhưng giờ lại phải chịu nhiệt độ quá nóng ở Đại Tây Dương. Vì hệ
thống làm mát không được thiết kế cho vùng biển nhiệt đới nên khi nhiệt
độ bên ngoài tàu lên tới hơn 30 độ C thì nhiệt độ trong tàu tăng tới 45
đến 60 độ C, mức CO2 đã trở nên nguy hiểm khiến nhiều thủy thủ bị ngất
xỉu.
Độ
ẩm cũng là một vấn đề nghiêm trọng, khẩu phần ăn bị cắt giảm và mỗi
người chỉ được phép uống một ly nước mỗi ngày.. Thủy thủ Anatoly
Andreyev ghi trong nhật ký: “Ở
đây, tình hình rất nghiêm trọng và ngày càng tồi tệ hơn, nhiều người bị
bệnh, một số bị ngất xỉu, số khác bị phù nề. Không ai ngủ được trong
cái nóng khủng khiếp và không khí ngột ngạt này. Hầu hết mọi người bị
sốt phát ban”.
Việc
chỉ huy tàu Savitsky ra lệnh cho B-59 lặn sâu hơn dưới đại dương để lẩn
trốn khỏi sự truy lùng của tàu Mỹ đồng nghĩa với việc mọi liên lạc với
bên ngoài đều bị cắt đứt. Họ không thể nghe được bất cứ phương tiện
truyền thông nào của Mỹ, cũng như không nhận được bất cứ liên lạc nào từ
Moscow.
Lần hiếm hoi B-59 nổi lên sạc ắc quy nhưng đã bị máy bay Mỹ phát hiện nên buộc phải lặn sâu xuống biển. (Ảnh: learning-history.com)
Thời
điểm ấy, họ không biết được rằng hải quân Mỹ đã thông báo cho phía Liên
Xô biết “Thủ tục xác định vị trí và Nhận dạng Tàu ngầm”, rằng phía Mỹ
sẽ thả bom chìm loại nhỏ để báo hiệu cho tàu ngầm Liên Xô biết họ đã bị
phát hiện và buộc phải nổi lên mặt nước trước khi Mỹ sử dụng loại bom
chìm uy lực hơn. Thật không may, Moscow không thể truyền đạt thông tin
này cho chiếc B-59 do nó lặn quá sâu dưới nước.
Sức
công phá của bom chìm dù nhỏ nhưng vẫn làm hỏng cột ăng ten vô tuyến
khiến thủy thủ tàu B-59 không liên lạc được với sở chỉ huy. Bởi vậy, các
sĩ quan trên tàu ngầm không hề biết đến “Thủ tục xác định vị trí và
nhận dạng tàu ngầm” mà Mỹ đã thông báo cho phía Liên Xô dẫn đến việc Mỹ
quyết định gửi tín hiệu cảnh báo mạnh mẽ hơn bằng cách sử dụng loại bom
uy lực hơn.
Vadim Pavlovich Orlov, một sĩ quan tình báo truyền thông trên tàu B-59 đã mô tả về bom chìm nổ ngay bên cạnh thân tàu như sau: “Nó giống như bạn đang ngồi trong một thùng kim loại, mà ai đó liên tục nổ mìn bằng búa tạ”.
Trong
không gian chật hẹp với nhiệt độ tăng lên tới mức cực điểm 60 độ C,
những thành viên trên tàu B-59 đã trải qua những thời khắc không khác gì
địa ngục. Anatoly Andreev viết trong thư gửi cho vợ: “Bốn
ngày qua, bọn anh lặn sâu dưới nước…. Tưởng chừng như đầu nổ tung vì
không khí ngột ngạt trên tàu…. Hôm nay, ba thủy thủ bị ngất xỉu vì quá
nóng… Máy lọc không khí chạy ì ạch, hàm lượng CO2 đang gia tăng và trữ
lượng điện đang giảm xuống mức thấp nhất. Những thủy thủ hết ca trực thì
ngồi yên bất động, mắt nhìn vào hư không… Nhiệt độ trên tàu lúc nào
cũng duy trì liên tục trên 50 độ C”.
Hải quân Mỹ thả bom chìm buộc tàu ngầm B-59 phải nổi lên mặt nước. (Ảnh: hague6185.wordpress.com)
Lúc này, sự căng thẳng bao trùm toàn bộ thành viên. Andreyev viết về chỉ huy tàu Savitsky như sau: “Điều
tồi tệ nhất là tinh thần của chỉ huy tàu căng như dây đàn. Ông la mắng
mọi người và hành hạ bản thân mà không nhận ra rằng nên tiết kiệm sức
lực của chính mình và của những thành viên khác, nếu không sẽ không thể
kéo dài lâu. Ông ấy trở nên hoang tưởng, lo sợ mọi thứ và điều đáng ngại
nhất là những hành động bộc phát của ông.”
Chỉ
huy tàu Valentin Savitsky đang ở trong tâm trạng lo lắng, kiệt sức,
thiếu thông tin trong suốt chuyến đi kéo dài cả tháng trời dưới biển.
Ông cho rằng trên mặt đất đã xảy ra chiến tranh hạt nhân và nghĩ tới khả
năng phóng ngư lôi đầu đạn hạt nhân. Theo chỉ thị từ trước, trong
trường hợp mất liên lạc với mặt đất, tàu ngầm có quyền phóng ngư lôi
mang theo tên lửa hạt nhân nếu cả ba người có thẩm quyền trên tàu đều
đồng ý.
Sau
nhiều giờ bị tra tấn vì bom chìm và nguồn oxy dần cạn kiệt, chỉ huy tàu
Savitsky “hoàn toàn kiệt sức” và “trở nên giận dữ” sau khi không liên
lạc được với Moscow. Savitsky hét: “Có
lẽ cuộc chiến đã bắt đầu ở trên đó, trong khi chúng ta đang nhào lộn ở
đây! Chúng ta sẽ nổ chúng ngay bây giờ! Chúng ta sẽ chết, nhưng chúng ta
sẽ đánh chìm tất cả – chúng ta sẽ không làm ô nhục Hải quân!”.
Và
ông ra lệnh cho thứ “vũ khí đặc biệt” sẵn sàng vào bệ phóng hướng tới
mục tiêu USS Randolph – tàu sân bay khổng lồ đang dẫn đầu lực lượng đặc
nhiệm Hoa Kỳ vây lùng B-59.
Với
cái đầu nóng của mình, hẳn thứ vũ khí đặc biệt ấy theo lệnh của
Savitsky sẽ dễ dàng làm bốc hơi tàu sân bay Mỹ cùng các tàu khu trục
đang hộ tống nó, và Mỹ có thể phản ứng lại bằng bom hạt nhân phá tàu
ngầm. Điều đó có thể, như nhà văn Nga nổi tiếng Svetlana Savranskaya
viết, sẽ “khởi đầu một chuỗi những sự phát sinh vô ý, dẫn đến hậu quả thảm khốc cho loài người”.
Sĩ
quan chính trị Ivan Semonovich Maslennikov trên chiếc B-59 cũng đồng
tình với chỉ huy tàu Savitsky. 11 tàu khu trục của Mỹ đang lởn vởn gần
đó không ngờ rằng suýt chút nữa, chúng trở thành mục tiêu của “thứ vũ
khí hủy diệt” trên con tàu B-59 cùng quẫn ấy.
Người hùng xuất hiện
May
mắn thay, một người thứ ba đã mạnh mẽ phủ quyết quyền khai hỏa của chỉ
huy tàu Savitsky và sĩ quan chính trị Maslennikov. Đó chính là vị chỉ
huy thứ hai trên chiếc B-59 – Vasili Arkhipov.
Vasili
Arkhipov đã kịch liệt phản đối, lập luận rằng trong một thời gian dài,
vì không có mệnh lệnh nào truyền từ Matxcova nên một hành động quyết
liệt như vậy là không thích hợp.
34
tuổi, điềm tĩnh và khiêm nhường, người ta không biết làm thế nào mà
Vasili Arkhipov có thể bình tĩnh thuyết phục người đồng nghiệp – chỉ huy
tàu Savitsky đang điên cuồng và sở hữu một lá phiếu ủng hộ. Không ai
biết chính xác, nhưng theo lời kể của các nhân chứng, đã có một cuộc đối
đầu căng thẳng giữa 3 người cấp cao trên tàu B-59 khi ấy.
Cuộc
tranh luận giữa chỉ huy tàu Savitsky và Vasili Arkhipov diễn ra khi
nhiệt độ trong tàu ngày một tăng cao. Vasili Arkhipov vẫn giữ được vẻ
lạnh lùng, bình tĩnh của mình để lập luận với viên chỉ huy rằng, B-59
không gặp nguy hiểm và đó không phải là một cuộc tấn công.
“Người
Mỹ thả bom chìm bên trái, bên phải mạn tàu và luôn luôn tắt mục tiêu,
đó là những tín hiệu mà người Mỹ muốn gửi tới tàu B-59 rằng, chúng tôi
biết các vị đang ở đó. Hãy xác nhận và nổi lên mặt nước để nói chuyện.
Chúng tôi không có ý định gây thiệt hại cho con tàu”, Arkhipov lập luận.
Ngày
27/10/1962, tên lửa không khai hỏa mà thay vào đó, B-59 từ từ nổi lên
mặt nước trong tình trạng kiệt quệ mọi thứ. Nó từ chối sự trợ giúp của
các tàu khu trục Mỹ, xoay lưng về phía Cuba và hướng về phía bắc trở về
Liên Xô, nơi nó được chào đón một cách đáng quan ngại.
Khi
B-59 trở về, thủy thủ đoàn đã gặp phải sự ghẻ lạnh thờ ơ. Dưới con mắt
của những lãnh đạo cấp cao Xô Viết khi ấy, hành động quay đầu trở về của
B-59 được cho là hành động đầu hàng người Mỹ và họ chẳng khác gì những
kẻ tội đồ. Một đô đốc Liên Xô khi ấy từng nói: “Sẽ tốt hơn nếu các vị
chìm cùng tàu của mình”.
Người
Mỹ không lên tàu, không kiểm tra, vì vậy Hải quân Hoa Kỳ không thể ngờ
rằng, B-59 sở hữu vũ khí hạt nhân cho tới khoảng nửa thế kỷ sau, khi các
cựu chiến binh gặp nhau tại một cuộc hội ngộ kỷ niệm 50 năm sự kiện đó
vào năm 2012.
Vai
trò của Vasili Arkhipov trong việc cứu thế giới thoát khỏi một cuộc
chiến tranh nguyên tử vẫn là một bí mật cho đến tận khi ông qua đời vào
năm 1998. Và với thế giới, ông có lẽ là một trong những người anh hùng
vô danh của thời đại.
Quyết
định hủy bỏ ngòi nổ cận kề cuộc chiến tranh thế giới thứ ba đã không
được thực hiện tại điện Kremlin hay Bạch Ốc , mà trong phòng điều khiển
của một chiếc tàu ngầm đang trong lằn răn của việc khai hỏa vũ khí hủy
diệt.
Quyết định hủy bỏ ngòi nổ chiến tranh nguyên tử không phải ở Tổng thống Mỹ Kennedy hay Tổng bí thư Liên Xô Khrushchev. (Ảnh: AP)
Như Thomas Blanton, Giám đốc Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia Hoa Kỳ phát biểu vào năm 2002: “Vasili
Arkhipov từ chối tuân lệnh chỉ huy tàu ngầm và dám đối mặt với những
thách thức từ cuộc đối đầu của mình. Chúng ta nên cảm ơn vì sự bất tuân
đó”.
Thế
giới hỗn loạn vẫn còn tồn tại một số quốc gia vẫn đang tiếp tục coi
việc phát triển vũ khí nguyên tử như sự sống còn của thể chế mà Bắc Hàn
là một ví dụ điển hình. "Xử lý" nguyên tử , sử dụng nguyên tử , hay
không sử dụng chúng đòi hỏi sự thận trọng và bình tĩnh cao độ.
Xuân Trường
No comments:
Post a Comment