Ba
tôi qua đời bất ngờ năm 1964, nhỏ em út còn trong bụng Má. Tôi phải
nghỉ học ... tìm việc làm ngày đêm để phụ giúp Má tôi nuôi 6 đứa em còn
nhỏ
dại.
Đầu
năm 1965, tôi được mời đến dạy kèm Toán cho cô con gái lớn một gia đình
người Việt ở Nam Vang. Mỗi ngày 2 tiếng, từ 7 đến 9 giờ tối, từ thứ Hai
đến thứ Sáu. Em học trường Providence, còn gọi là trường Bà Phước, lúc
đó chỉ dành cho nữ sinh. Em nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng mới ở lại
Cinquième, trong khi tôi đã đậu Brevet d’Études du Premier Cycle hai năm
trước. Có lẽ vì là con gái nhà khá giả nên em hơi...
làm biếng học, nhất là toán, Géometrie và Algèbre.
Lúc
đầu, tôi hơi nản lòng vì.... em nhìn bài vỡ như thấy ma, tôi thường
phải làm bài dùm em nhưng từ từ ... em nghe lời tôi khuyên, em chịu làm
bài,
chịu học bài, và được lên lớp mỗi năm. Đầu năm 1968, em học Troisième,
chuẩn bị thi Brevet. Tôi kèm em từng môn, giúp em làm những bài vỡ mà
đúng ra tôi không cần giúp. Em trả ơn bằng cách mời tôi ở lại ăn cơm
tối.
Tôi cho em mượn những quyển sách mà tôi
đã học qua nên một lần trả sách, em kèm theo tấm giấy chỉ viết một câu
“cho moi làm amie intime của toi nha”. Tôi gật đầu vì sợ em giận, em
không thèm học nữa. Từ đó, em hẹn tôi đi chơi
cuối tuần, tôi cũng gật đầu với điều kiện là em phải xin phép Ba Má
đàng hoàng và phải ráng học.. Tôi biết em thương tôi, tôi cũng thương
em. Tôi gọi em là “cô Tiên” vì em có dáng dấp qua cầu gió bay, có bước
đi lả lướt nhẹ nhàng như các nàng tiên nữ trong
vũ khúc nghê thường, vì em đã mang đến cho tôi những gì mà người trần
gian chưa từng cho tôi trước đó.
Những ngày mưa, không đi chơi được thì tôi ngồi hát em nghe bên mái hiên nhà ...
....
Một chiều cuối tuần mưa bay lất phất và mây trắng giăng giăng. Em đến
thăm anh, vì trời mưa mãi nên không kịp về. Bên anh, em lặng nhìn bầu
trời và ánh mặt mộng mơ. Sợ người yêu khóc, khe khẽ bên tai, anh kể
chuyện ngày xưa ...
....
Chuyện xưa kể rằng trên thiên giới ấy ngày vui kết hoa đăng. Thiên Quốc
đang vui một nàng tiên nữ lỡ làm rơi ly ngọc ngà. Ðang say nên trời bèn
đọa đày nàng xuống dưới trần gian. Làm người dương thế không biết bao
lâu mới cho quay về trời ...
Em
ơi ! nàng tiên ấy xuống dương trần một chiều mây bay nhiều. Và vì
thương đời lính thương kiếp sống phong sương nên dù rằng một hôm. Thiên
Quốc trời sai đem mây hồng làm xe đưa tiên về. Tiên nói dối ... tiên còn
đang giận trời nên tiên chưa về đâu ...
....
Nàng tiên giáng trần trong đôi cánh trắng và đang ngắm mây bay. Tiên
đứng bên anh nguyện thầm mưa mãi cho tiên đừng về. Em ơi, nếu mà trời
gọi về thì em có về không ? Mỉm cười em nói : “Tiên thích dương gian với
chiều mưa thật nhiều....”
Nhưng tôi luôn nhớ mình là con trai nhà
nghèo, chỉ có chiếc Mobylette cà tàng làm chân đi kiếm cơm mỗi ngày. Em
là con gái nhà khá giả, đi học có xe đưa rước, về nhà không làm động
móng tay vì đã có chị bếp, chị bồi, chị vú
lo toan mọi việc. Nếu hai đứa thành vợ thành chồng, em cực thân là cái
chắc.
Trong một lần kề vai nhau đi quanh công
viên Chùa Tháp, trời bỗng dưng mưa. Tôi bật dù che hai đứa nhưng mưa
càng lúc càng nặng hột ... em bỗng xoay người lại ôm hôn tôi dưới mưa.
Tôi than thầm trong bụng “gặp oan gia truyền
kiếp rồi”.
Năm đó, em thi đậu Brevet và tôi nghỉ dạy vì vừa xin được cái job thư ký kế toán ở hãng L’UCIA, Nam Vang.
Lúc trước gặp nhau 5 ngày mỗi tuần, có
nhiều thì giờ để nói với nhau những gì muốn nói. Giờ phải chờ đến cuối
tuần mới được gặp nhau vài tiếng, nhớ ơi là nhớ. Tôi bắt đầu làm thơ
“nhớ em” ....
Nhớ
lúc xưa kia mới biết nhau
Rồi
thương rồi nhớ suốt đêm thâu
Ðêm
nào cũng vái cho mau sáng
Nhớ
quá trời ơi ! Nhớ phát rầu.
Nhớ
những chiều em qua phố vắng
Dáng
hồng xen lẫn bóng hàng cau
Mân
mê vạt áo, em e lệ
Những
lúc anh nhìn, má đỏ au.
Nhớ
lúc mình đan tay đếm bước
Em
run run hỏi : - Sẽ ra sao ?
Anh
cười, anh nói như đinh đóng :
-
Anh sẽ yêu em đến bạc đầu !
Đưa bài thơ cho em, em bỏ túi nói sẽ về nhà đọc.
Tuần sau gặp nhau, em không nhắc gì về bài thơ của tôi mà hỏi tôi nghĩ gì về cuộc sống hai đứa sau này.
Tôi nói là nhà tôi nghèo, em nói em
biết rồi, tôi phải đi làm giúp Má nuôi các em còn nhỏ, em nói em cũng
biết rồi, nếu mình cưới nhau thì em sẽ cực thân hơn là sống với Ba Má em
...
Em trả lời làm tôi chưng hửng “hiện nay
... cái khổ nhất mà moi phải chịu đựng hàng ngày là nhớ toi, cái cực
nhất mà moi phải chịu đựng hàng ngày là làm sao để gặp toi sớm hơn, nên
moi không sợ gì cả. Trời sanh voi sanh cỏ”.
Tôi khuyên em nên kiên nhẫn, nói cho em hiểu lúc này là thời gian đẹp
nhất trong cuộc tình hai đứa, cái nhớ cái thương bây giờ sẽ làm mình gắn
bó nhau hơn sau này, v.v....
Em nghe lời tôi và chuyện hẹn hò của chúng tôi kéo dài cho tới đầu năm 1970.
Tướng Lon Nol lật đổ vua Sihanouk, tự
phong là tổng thống xứ Kampuchea (Cao miên). Một số người Miên quá khích
thừa nước đục thả câu, “cáp duồn” (nghĩa là chặt người Việt) lẻ tẻ.
Đang đêm, họ đến gõ cửa nhà người Việt ở những
vùng thôn quê hẻo lánh ... một số người Việt không may đã bị họ chặt
đầu, xác thả trôi sông về tới Tân châu, Hồng ngự ... Nhiều người Việt có
chút của ăn của để ở Cao miên bán tháo tài sản để về Miền Nam Việt Nam
lánh nạn. Ba Má em cũng không ngoại lệ.
Em gặp tôi bàn chuyện này. Tôi đem việc
này hỏi ý kiến ông giám đốc hãng L’UCIA. Ông giám đốc đưa hai đứa tôi
về biệt thự do hãng mướn cho ổng ở trên đại lộ Norodom, ngay trung tâm
thủ đô Nam vang. Ổng nói “nhà tao có 2 người
bồi bếp, có 2 con chó Berger giữ nhà. Nhà có 5 phòng, tao ở chỉ một
phòng. Nếu hai đứa thấy ở nhà mầy không an toàn thì đến đây ở với tao.
Tao tin tưởng và cần thằng B. giúp tao giữ gìn sổ sách của hãng nên hai
đứa mầy muốn ở phòng nào, muốn ở bao lâu cũng
được”.
Nghe vậy, chúng tôi yên tâm và quyết định ở Nam vang dù Ba Má em có về Sàigòn.
Em về xin Ba Má cho hai đứa làm đám
cưới. Má em có cảm tình với tôi nên gật đầu. Ba em im lặng vì biết tôi
nghèo, sợ con gái cưng của ông sẽ cực khổ khi về làm vợ tôi. Em nói với
Ba Má em “nếu Ba Má không tổ chức đám cưới cho
hai đứa con, tụi con sẽ tự lo. Con muốn làm vợ anh B. danh chánh ngôn
thuận”.
Và hai đứa tôi tự tổ chức lễ cưới của mình.
Sáng ngày 24/02/1970, Má tôi và tôi
mang trầu cau và phẩm vật đến xin cưới em. Chúng tôi lạy bàn thờ tổ tiên
nhà em, xin quý ngài chứng giám cho chúng tôi thành vợ thành chồng. Tôi
mướn xe Mercedes để rước “cô Tiên” xuống trần
... Tối đến là tiệc cưới tại nhà hàng La Lune, đối diện State Olympic,
với 200 quan khách, họ hàng và bạn bè nhà trai, nhà gái. Dĩ nhiên là có
nhạc sống do mấy tên bạn tôi tự mang đồ nghề đến giúp vui ... Đêm đó,
hai đứa tôi khiêu vũ và cụng ly với bạn bè
gần tới sáng.
Xin ngừng ở đây, kể lễ hoài cũng ngại bà con than phiền là “ông già nhiều chuyện” !
Chuyện
Cô Tiên P2.
Khi kể lại chuyện tình của tôi và cô
Tiên, từ ngày quen biết rồi yêu thương nhau đến khi thành vợ thành
chồng, tôi nghĩ vậy là đủ rồi. Hổng dè bà con yêu cầu kể tiếp với hơn
300 cái likes. Thôi thì ... một liều ba bảy cũng
liều, coi như đây là “chuyện cô Tiên tập 2” cũng là tập cuối.
Vô đề nha ...
Sau ngày chúng tôi thành hôn thì tình
hình chính trị giữa hai nước Kampuchea và Miền Nam Việt Nam biến chuyển
dồn dập. Ông bà nhạc tôi và gia đình bay về Sàigòn vài ngày sau đó. Vợ
chồng tôi vẫn ở Namvang. Tôi vẫn đi làm ở
L’UCIA.
Khi xác nhiều người Việt trôi về tới
Hồng ngự, Tân châu, ông Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Phó Tổng Thống VNCH, ra
lệnh cho Quân-đoàn 3 tràn qua biên giới, lấy cớ là để “bảo vệ kiều bào
VN”. Trung tướng Đỗ Cao Trí nhận lệnh với
lời tuyên bố làm chấn động chính phủ Cao miên : “Cho tôi 24 tiếng, tôi
sẽ chiếm Nam vang”.
Ông Lon Nol nghe muốn té đái. Mới làm
tổng thống có mấy ngày, nếu để QLVNCH chiếm Nam vang thì mất mặt bầu
cua. Ông gọi điện năn nỉ chính phủ VNCH đừng chiếm Nam vang nên
Quân-đoàn 3 dừng lại ở Neak Luong (người Việt mình gọi
là Hố Lương), một bến phà chỉ cách Nam vang 60 cây số.
Nghe tin QLVNCH tràn qua biên giới, cả
trăm ngàn kiều bào VN ở Cao miên, trong đó có vợ chồng tôi, bỏ tất cả
tài sản, dắt díu nhau vào các trại tị nạn. Các sân trường trung học,
chùa, nhà thờ bỗng trở thành những trại tị nạn
khổng lồ. Vợ chồng tôi vào trường Seminaire, nơi tôi đã học năm cuối
chương trình Tú tài Pháp hai năm trước.
Trong trại Seminaire, người ta chia ra
nhiều nhóm, mỗi nhóm 10 gia đình, trước hết là để lãnh nước uống, sau là
thức ăn, lúc đó chỉ có khô cá lóc do Red Cross cung cấp. Tôi làm trưởng
nhóm 31.
Đầu tháng 5/1970, ông NCKỳ bay lên Nam
vang, nói là thăm xả giao tướng Lon Nol nhưng thật sự là đi thanh tra
các trại tị nạn. Tối đêm trước, tôi và các trưởng nhóm được lệnh phải
thu tất cả những những gì có thể coi như là
vũ khí gồm dao, gậy, v.v... và cùng nhiều người thức gần sáng đêm để
dựng cái sân khấu dã chiến.
Khi ông Kỳ vào trại Seminaire, ông đến
từng lều, bắt tay và hỏi thăm từng người. Điều làm mọi người chú ý là 2
anh đại-úy cận vệ. Họ cao hơn ông Kỳ 1 cái đầu, mặc đồ bay, mang súng
ngắn dưới nách, nhưng không cản trở khi kiều
bào đến bắt tay, thậm chí ôm hôn ông Kỳ.
Ông Kỳ lên sấn khấu, nói vài lời thăm
hỏi xã giao rồi hứa : “Tôi sẽ đưa tất cả đồng bào về quê hương” ! Ông
nhận được những tràng pháo tay như sấm động của mấy ngàn người trong
trại Seminaire. Nhiều bà lão bò ra khoảng trống
trước sân khấu lạy ông Kỳ như tế sao.
Vài ngày sau, chúng tôi được phát thịt
heo lần đầu, dù không ai biết ai cho nhưng mọi người nghĩ là từ chính
phủ VNCH. Tuần sau, một đoàn “tàu há mồm” của Hải quân VNCH cặp bến sông
Mekong.
Danh sách từng nhóm được gọi để rời
trại xuống tàu về nước. Vợ chồng tôi thuộc danh sách thứ 31 nên gần cuối
tháng 5/70 mới được rời trại. Sau 1 ngày lênh đênh trên sông Tiền (hay
sông Hậu ?) thì về tới trại Đồng Tâm, Mỹ Tho,
lúc đó là hậu cứ của Sư-đoàn 7 BB.
Vợ chồng tôi chỉ ở trại Đồng
Tâm 5 ngày. Làm giấy tờ nhập cảnh xong thì Ba em lái xe xuống rước về Sàigòn.
Cuộc sống chúng tôi từ ngày về Sàigòn
không còn ... tà tà như lúc ở Nam vang. Cũng như tất cả Việt kiều hồi
hương lúc đó, tôi được hoãn dịch 18 tháng. Thời gian không nhiều nên tôi
làm ngày làm đêm. Em cũng đi làm. Cuối tuần
hai đứa đưa nhau đi ăn mì xào dòn, hay ăn nghiêu luộc.
Mỗi tối đi đàn về ... tôi chạy thẳng vô
Chợ Lớn mua cho em cái bánh bao Ông Cả Cần của Bà Năm Sa-Đéc. Lúc này
em không còn thơ thẩn, mà ngược lại ... em ăn rất bạo. Dù không nói ra,
tôi biết em đang chuẩn bị cái bụng cho đứa
con đầu lòng của chúng tôi ... dù không biết lúc nào nó sẽ tượng hình.
Nhiều người trong gia tộc hai bên thường trề môi nói “thằng B. con nhà
lính tính nhà quan, mới ở Nam vang về tay trắng mà vợ nó muốn gì được
nấy” v.v...
Mấy người này không biết là lúc còn độc
thân, tôi đã đọc một câu định nghĩa “người phụ nữ lý tưởng” của 1 người
đàn ông như sau : “Người phụ nữ lý tưởng của một người đàn ông là người
bạn, người tình và là người vợ của người
đàn ông đó”.
Hồi đọc câu đó, tôi chưa gặp cô Tiên
nên tôi đã tự hỏi ngược lại là “tôi có thể vừa là người bạn, vừa là
người tình, và là chồng của vợ tôi không” ??? Ông nào muốn biết cái vụ
này nó khó cở nào cứ thử cua một cô bạn gái rồi
cưới cổ về làm vợ thì sẽ hiểu câu ... “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.
Nhưng khi gặp rồi thương yêu cô Tiên, cái định nghĩa xưa tự nó cho tôi lời giải đáp.
Lúc mới thương nhau, tôi thường kể em
nghe chuyện bồ bịch của tôi lúc trước. Em chẳng những không ghen hờn, mà
còn góp ý ... đôi khi rất tiếu lâm, rồi hai đứa cười hí hí. Lúc hai đứa
đi chơi, gặp cô nào có “ngực tấn công, mông
phòng thủ” là tôi hay quay lại nhìn, em im lặng nắm tay tôi, đợi cô đó
đi khỏi tầm mắt mới hỏi “bộ toi hổng thấy cổ đi hai hàng hả ?”. Khi vào
tiệm bán sách, tôi có cái tật (hổng biết xấu hay tốt) là đứng hơi lâu
trước mấy cái đặc san người lớn như PlayBoy.
Em im lặng đứng bên tôi, đến khi rời tiệm sách em mới phê bình ....
“nhỏ này vú đẹp, cô kia mông teo, v.v...”. Chỉ khi đến kệ bày mấy cuốn
Salut les Copains, em mới thò tay lựa cuốn mới nhất và tự ra quầy trả
tiền.
Em chưa bao giờ bắt tôi trả tiền những
gì em mua cho riêng em. Em chưa bao giờ lớn tiếng hay dùng lời lẽ không
lịch sự với bất cứ ai, dù đôi khi tôi hay ai đó vô tình hoặc cố ý làm em
giận.
Ba em nói với em “Ba thấy nó đi nhảy
đầm, tay trái một con, tay mặt một con”. Em trả lời “những gì ảnh làm
lúc còn độc thân là quyền của ảnh ... con không cần biết (thật ra tôi đã
kể em nghe hết rồi). Chỉ cần biết hiện giờ
hai đứa con thương nhau thật lòng là được rồi”.
Em có cách hôn, chỉ phớt nhẹ, làm tôi
hồn phi phách tán. Khi thấy tôi buồn, em cầm tay tôi, xoa nhè nhẹ lên mu
bàn tay, khiến tôi quên hết mọi phiền não. Sau này thành vợ thành
chồng, em vẫn là người tình tuyệt vời. Em biết
cách làm tôi quên những nghiệt ngã mà tôi đã trải qua trong ngày hôm
đó.
Em biết tiết kiệm, vén khéo với số tiền
mà chúng tôi kiếm được. Em không se sua, dù luôn ăn mặc thanh lịch. Mỗi
lần hai đứa ra đường là tôi phải ngó trước nhìn sau, coi có tên nào
nhìn lén em không. Khi đứa con đầu lòng của
chúng tôi chào đời năm 1972, em tự nguyện bỏ bớt chuyện mua sắm cho
riêng mình, để có đủ tiền cho con chúng tôi bú sữa Guigoz 3 năm liên
tục.
Cô Tiên đã là một người bạn, một người
tình và là người vợ tuyệt vời của tôi. Được một người vợ như cô Tiên, em
muốn gì được nấy không có gì quá đáng. Bán nhà cho em cũng được, huống
chi là ba cái lẻ tẻ.
Tháng 4/1972, tôi hết hạn hoản dịch, phải đi lính cho tới ngày tan hàng.
Chuyện lính tráng sẽ kể quí vị nghe dịp
khác ... nếu siêng. Chuyện lính của tôi có dính dáng tới cô Ngọc Đan
Thanh, hiện giờ làm MC cho trung tâm Asia. Chuyện rất buồn nhưng bỏ qua
rất uổng.
Trở lại chuyện cô Tiên,
Sau 75, có ngày hai đứa phải ăn sáng
bằng ... cơm nguội, nhưng em luôn dành 1 hoặc 2 đồng cho con chúng tôi
có gói xôi nóng hay tô cháo huyết. Cực nhất là lúc chúng tôi về quê tôi
sống từ năm 1976 đến năm 1979 vì Má tôi nằng
nặc biểu tôi phải về quê. Bà già biết tánh tôi ... “biết mà không nói
là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa”, mà tôi thì biết nhiều
tội ác “trời không dung, đất không tha” của mấy ông đi mộ quân cho
MTGPMN từ những năm 60 -70 ở Cao miên.
Chính tôi và bạn bè tôi bị họ dụ nhiều
lần, nhiều cách. Thường là tiền, có khi là gái. Nhiều thằng nhẹ dạ đã đi
không về, có đứa về sau 75, hình hài te tua không giống con giáp nào
hết, khi nhậu say chửi cán bộ lấy tàu xà-lúp
chở. Tôi quay lưng với họ từ đầu nhờ Má tôi dặn “Theo mấy ổng, hổng có
gạo ăn”. Bà già sợ tôi bực mình ... “phát ngôn bừa bãi” thì hậu quả khó
lường.
Má tôi cho 2 công ruộng và nửa công
vườn, đủ cho gia đình chúng tôi sinh sống, không cần phải đi làm mướn,
làm thuê. Nhưng không may là hai năm 77-78, lũ lụt tràn vào ngập ruộng
trước khi lúa chín. Nông dân vùng Tân châu đói
thể thảm. May mà tôi cất nhà sàn, cao khoảng 1.5m, nên nước ngập lé đé
sàn nhà.
Nhiều nông gia ở nhà đất, phải kê tủ
giường lên cao, có người kê giường tới gần đụng nóc nhà. Mỗi ngày, cô
Tiên ngồi trên sàn nước, miệt mài câu từng con cá chốt, cá sặc, cá lòng
tong. Tôi không dám nhìn lâu. Đến bữa ăn chỉ
có món cá kho thập cẩm vậy mà thằng con khen “má kho cá ăn ngon”. Tôi
mắc nghẹn từng hồi. Rồi cũng qua.
Ở quê, em không cho con đi học, nói mấy
ổng dốt mà dạy cái gì ! Vợ chồng tôi thay nhau dạy con nói và viết
tiếng Việt, tiếng Pháp. Bài học tiếng Việt đầu tiên là bốn câu thơ của
ngài Lý Thường Kiệt:
Nam
quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt
nhiên phận định tại thiên thư
Như
hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiếng Pháp thì chúng tôi dạy con nói và
viết những câu chào hỏi thông thường, không ngờ khi qua Úc nó học tiếng
Anh nhanh hơn những bạn tị nạn khác nhờ tiếng Pháp và tiếng Anh có
nhiều chữ giống nhau.
Qua năm 79, tôi trúng mùa. Bán mấy chục
giạ lúa, thêm chút tiền dành dụm, mua được cái ghe nhỏ, tính chuyện
lớn. Khoang ghe chỉ vừa đủ cho hai người lớn và một đứa nhỏ chen vai
nhau ngủ. Tôi không biết chèo, tập cả tháng sau
mới chèo được 2 chèo. Em không biết lội nhưng nhất quyết đòi đi đến
những nơi có thể cho chúng tôi thấy được tương lai. Em nói “mình đã sống
mấy năm ‘có miệng không nói lại câm, hai hàng nước mắt chan dầm như
mưa’ ! Đủ rồi, phải đi tìm tương lai cho mình và
cho con”.
Vậy là đi. Chèo từ Tân châu tới Long
xuyên mất hai ngày. Nghỉ xã hơi một ngày rồi chèo tiếp tới Ô môn, Cần
thơ, Ngã 7, Sóc Trăng, Hộ Phòng, Gành hào, và sau cùng là ngã 3 cây Tàn.
Ở ngã 3 cây Tàn hơn 1 tháng vì có người mướn
tôi đào ao nuôi cá. Đào ao 1 tháng được 2 giạ gạo và một mớ tiền. Chúng
tôi trở ra Gành hào vì thấy nơi này là nơi lý tưởng để ra đi. Tôi giấu
dưới khoang ghe cái máy đuôi tôm, thường ngày không dám xử dụng, sợ
người ta dòm ngó, định khi nào đi mới xài.
Ở Gành Hào đêm trước, thì đêm sau bị bão.
Mưa như trút nước, sấm chớp đầy trời.
Chiếc ghe tôi lắc lư như người say rượu, nửa đêm đứt dây buộc sào trôi
ra giữa sông. May là lúc đó nước lớn, nước từ ngoài biển đổ vô sông, nếu
ngược lại thì có thể bão đã đưa chúng tôi
qua Thái lan hay hổng chừng ... vô bụng cá. Tôi cột sợi dây quanh bụng,
cố gắng lội vô bờ.
Hình như ... lúc không còn cái gì để sợ
nữa thì mình mạnh hơn bình thường nên tôi đã kéo chiếc ghe tới dưới dạ
cầu chợ Gành hào. Buộc dây ghe lại đàng hoàng là tôi ngã lăn ra thở dốc,
lạnh run cầm cập. Em lau mình cho tôi và
đưa tôi cái bánh bía, hổng biết em mua lúc nào, đúng là cô Tiên. Ăn cái
bánh bía đêm đó, hương vị thơm ngon còn phảng phất tới bây giờ.
Bye bye Gành hào, tôi gắn máy đuôi tôm
chạy về Long Xuyên. Chúng tôi ở Long xuyên gần 3 năm. Tôi làm bất cứ
chuyện gì, miễn là lương thiện, để có tiền nuôi vợ con. Có lúc đạp xe
lôi, có lúc vác lúa gạo ở các nhà máy xây lúa,
có lúc làm tạp nhạp.
Đến tháng 2/1982, em tìm được đường dây
vượt biên vừa với khả năng của vợ chồng tôi lúc đó. Cái may là chúng
tôi chỉ đi một lần là tới Mã Lai. Ở Bidong 1 tháng rưởi là được phái
đoàn Úc nhận. Qua trại chuyển tiếp Sungei
Besi 2, ngoại ô Kuala Lumpur để khám bệnh, bổ túc hồ sơ. 3 tháng rưởi sau là chúng tôi có list đi Úc.
Hy vọng bà con không yêu cầu tôi kể thêm chuyện gì nữa.
Già rồi, gõ máy hoài ... mỏi tay quá ...
.......
Khi
bắt đầu gõ “chuyện cô Tiên” tôi nghĩ ... nên chia sẻ với bà con cái
quan điểm sống của bà xã tôi là “vouloir c’est pouvoir”. Em muốn làm là
em
làm, dĩ nhiên là làm những việc tốt cho tôi, cho em, cho gia đình tôi
và bạn bè của chúng tôi, dù khó khăn tới đâu em cũng cố gắng làm tới nơi
tới chốn.
Ví dụ như
... vài ngày sau khi đặt chân lên đất Úc, lúc đó chúng tôi chỉ biết
tiếng Pháp chưa biết tiếng Anh. Em nói với tôi “moi không thích nhờ
thông dịch, nhà mình phải có một
người giỏi tiếng Anh, toi phải đi học. Moi sẽ đi làm nuôi toi và con”
!
Nghe ghê chưa ?
Mà em cũng không biết tiếng Anh thì đi làm cái gì ?
Em quên mình từng là một tiểu thơ được
cơm bưng nước rót, em quên mình từng đi học có xe đưa rước, em quên mình
là ... cô tiên của tôi ... nên ai mướn gì làm nấy. Quét dọn nhà cửa cho
người Úc, chăm sóc con em của đồng hương,
làm chả giò bán sỉ (không biết em học ở đâu mà làm chả giò và đổ bánh
xèo ngon nhất Darwin).
Tôi cũng đi làm ban ngày, đi học ban
đêm. Bảy năm ròng rã, tôi lấy được 2 cái Certificates về kế toán và quản
trị địa ốc và xin được cái job “Security Administrator” tại trường đại
học Charles Darwin University ở Darwin đầu
năm 1985. Tôi làm việc tại CDU liên tục hơn 27 năm, đến khi nghỉ hưu
cuối năm 2012.
Em không đi học tiếng Anh một ngày nào
nhưng sau này ... lại làm thông dịch cho bạn bè, nhiều nhất là mấy cô
lấy chồng Úc, mới qua Úc chân ướt chân ráo, tìm đến em nhờ giúp đỡ. Em
chở họ đi làm hồ sơ nhập cư, điền đơn xin tiền
ASXH, v.v... Bà xã tôi thương đồng hương nên ai nhờ thì giúp, cứ ăn cơm
nhà vác ngà voi, không đòi hỏi ai phải trả đồng bạc nào dù biết làm
thông dịch cũng được trả tiền. Mấy cô vợ Úc thương em lắm, cuối tuần là
ghé nhà tôi xào xào nấu nấu ... thật vui.
Hỏi em mới biết ... em học tiếng Anh
bằng cách theo dõi các chương trình Play School trên TV. Chương trình
này dạy con nít Úc nói/viết tiếng Anh để chuẩn bị vô mẫu giáo. Em đọc
báo tôi mang về mỗi ngày. Không hiểu chữ nào,
đoạn nào thì em hỏi tôi hay tra tự điển.
Tiếu lâm nhất là khi bà hàng xóm nhờ em
làm thông dịch. Bà này gốc Ý (Italy), có chồng gốc Tây Ban Nha (Spain).
Bà ta đến Úc theo diện vợ chồng năm 1978 và không đi học ngày nào. Khi
rảnh rỗi bà ta qua nói chuyện với bà xã
tôi. Bà ta nói “broken english” với giọng Ý nên tôi và mọi người không
ai hiểu cả. Vậy mà bà xã tôi hiểu nên mỗi lần bà hàng xóm cần đi bác sĩ,
hay bất cứ cơ quan công quyền nào ở Darwin là qua năn nỉ nhà tôi theo
làm thông dịch.
Một năm sau ngày đến Úc, tôi được bầu
làm tổng thư ký Hội Người Việt Tự Do tại Darwin, sau đổi tên thành
CĐNVTD Bắc Úc cho tới bây giờ. Tôi dính với các sinh hoạt của CĐ mình
cho tới năm 2017 mới rút chân ra được. Suốt thời
gian này, bất cứ tôi làm cái gì đều có sự giúp đỡ, yểm trợ khi công
khai khi âm thầm của cô Tiên.
Đứa con thứ hai của chúng tôi chào đời năm 1984 tại Darwin.
Nhìn em cho con bú, tắm rửa cho con,
nâng niu thằng nhỏ như vàng như ngọc, tôi nhớ lại những ngày hai đứa mới
thương nhau, mỗi lần bên nhau là bàn chuyện mai này ... tôi viết bài
thơ tặng em...
Một
chiều lãng đãng ánh tà dương
Em
kể anh nghe chuyện mộng thường
Đôi
mắt em nhìn xao xuyến quá
Như
sao lấp lánh một trời thương.
Từ
đó đời mình hết lẻ loi
Đan
tay qua phố bước chung đôi
Em
cười rạng rỡ như tiên nữ
Tiên
nữ của anh - cũng được rồi.
Từ
đó đời mình ươm ước mơ
Từng
đêm anh cắn bút làm thơ
Mỗi
dòng ôm ấp ngàn thương nhớ
Thương
nhớ lớn theo nỗi đợi chờ.
Từ
đó mình bàn chuyện lứa đôi
Mai
này, mình có hai con thôi
Trưởng
nam, phần nó lo hương hỏa
Em
nó, cô Ba - có rượu mời.
Từ
đó mình bàn chuyện cưới nhau
Anh
giành chọn áo cưới cô dâu
Màu
vàng, hoàng hậu lòng anh đó
Em
nói : - Màu hồng, áo cô dâu !
Từ
lúc về làm vợ của anh
Âm
thầm mình kết mộng ngày xanh
Trưởng
nam bật khóc, cưng như ngọc
Đứa
kế trai luôn, quý tựa vàng.
Nhiều
đêm nằm gác tay lên trán
Anh
cám ơn Trời, cám ơn em
Bảy
nổi ba chìm mình chẳng ngán
Vì
em có anh, anh có em.
Từ năm 2005 đến năm 2015, chúng tôi tổ
chức những bữa ăn cứu trợ Thương Phế Binh QLVNCH còn sống khổ sở nơi quê
mình bằng cách ... tổ chức BBQ tại nhà tôi. Thức ăn do bà xã tôi và vài
người bạn thân cùng chung sức nấu nướng,
tôi bỏ tiền túi mua bia và nước giải khát. Ăn uống free. Tôi để 1 cái
“Thùng Cứu trợ” trên bàn, ai cho bao nhiêu, tôi gởi về VN giúp anh em
TPB bấy nhiêu, theo tiêu chuẩn mỗi người 100 Úc kim.
Vì số người Việt ở Darwin rất khiêm
nhường, chỉ có vài trăm người, nên lúc đầu chỉ được vài ngàn. Từ từ, bà
con tin tưởng nên khi có dịp đi ngang nhà tôi là họ bỏ tiền vô thùng
thơ, không đợi đến Bữa ăn Cứu trợ.
Năm 2015, số tiền cứu trợ tôi nhận được trên 12,000 Úc kim, gởi giúp trên 120 anh em TPB ở VN.
Gõ máy tới đây, bỗng nhiên làm biếng ... không muốn gõ máy nữa, vì đang nhớ cô Tiên, nhớ quá xá nhớ ...
Tôi biết không có cái gì bí mật mãi với thời gian, nên xì ra phức cho rồi ... cho nhẹ lòng ...
Thưa bà con,
Cô Tiên của tôi đã về trời sau khi đã cùng sống chung với cha con tôi 43 năm, 3 tháng, 27 ngày hạnh phúc.
Em quy tiên sau một cơn bạo bệnh. Từ một người mạnh khỏe bình thường, đúng 5 tuần sau thành người thiên cổ.
Trong những ngày cuối của cuộc sống nơi
dương thế, khi thấy hai con đứng nhìn em, nước mắt lưng tròng, em cầm
tay con lắc lắc, mỉm cười nói : “Chúa cũng chết, Phật cũng chết, thì Má
cũng chết. Má đã trả xong món nợ ân tình
với Ba con và các con thì Má đi. Con trai khóc ... xấu lắm”. Con tôi
quẹt nước mắt ... miệng cười méo xẹo.
Trong Hospice Hospital, nơi dành cho
những bệnh nhân ... “terminally ill”, mỗi ngày có y tá đến đánh răng và
lau mình cho em. Có một lần em cám ơn họ “Thanks so much for keeping my
body clean. I know it’s shutting down”. Cô
y tá người Úc trợn mắt nhìn em, rưng rưng nước mắt. Sau này, cô nói với
tôi “Tao chưa thấy ai sắp chết mà còn lịch sự và tỉnh táo như vợ mầy”.
Khi biết mình sắp trả xong cái nghiệp ở
dương gian, em nắm tay tôi dặn dò phải tổ chức tang lễ em như thế nào.
Thỉnh vị tăng ni nào chủ trì tang lễ, xong phải hỏa thiêu và chỉ giữ tro
cốt 100 ngày. Sau đó mang tro cốt em rải
trên sông Parramatta, đoạn gần Opéra House ở Sydney, là nơi em thích đi
dạo mỗi lần đi thăm con. Em nói nhỏ nhẹ như đang lo tang lễ của ai
khác. Tôi chỉ biết im lặng gật đầu, ráng kềm cho nước mắt đừng chảy ra.
Tôi đã làm đúng theo lời em dặn.
Từ ngày cô Tiên về trời, cha con tôi đứt ruột đứt gan, tan nát trong lòng. Tôi đã sống những ngày .... như người chết chưa chôn.
Nhưng nếu không nói ra chuyện buồn này thì bà con thúc tôi kể chuyện cô Tiên hoài ...
Cô Tiên đã về trời, tôi đâu còn chuyện gì kể cho bà con nghe nữa???
Xin mượn thơ ông Xuân Diệu, sửa vài chữ cho hợp với hoàn cảnh của tôi để chấm dứt “chuyện cô Tiên”...
Em
đi ... một nửa hồn tôi chết.
Một
nửa hồn kia bỗng ... khật khùng.
Chân thành cám ơn tất cả quý vị đã góp ý, chia vui, chúc tụng, v.v....
Khi có rảnh, tôi sẽ lần lượt trả lời
những câu hỏi mà tôi có thể trả lời được, đặc biệt là các chiến hữu
thuộc LĐ5/BĐQ. Khi nào siêng siêng, tôi sẽ viết lại chuyện tôi đi lính,
dù chỉ có 3 năm ngắn ngủi nhưng cũng có nhiều
giai thoại lý thú, buồn nhiều hơn vui.
Tạm biệt nha ... hu hu hu :
Buu
Nguyen
No comments:
Post a Comment