(qua bài Thổn Thức cho VN)
(Cần
nói thêm, con trai của ông Đoàn văn Toại (ĐVT) lấy ca sĩ Trần Thu Hà,
là cháu ruột của nhạc sĩ Trần Tiến. Một gia đình Bắc kỳ rặc cộng sản
thông gia với gia đình Nam kỳ rặc ngây thơ về chính trị.)
Ngay
từ những dòng chữ đầu, ông Toại đã phải thú nhận là hiện tượng 1 triệu
người Bắc di cư vào Nam năm 1954 vẫn không lay chuyển được niềm tin của
ông vào chủ nghĩa cộng sản. Cũng như những người miền Nam chân chất, họ
không ngờ là những điều được nghe là bằng chứng sống, bằng chứng của máu
và nước mắt. Họ vẫn cho là cường điệu, bi thảm hóa sự việc một cách lố
bịch. Gia đình tôi cũng di cư. Ông cụ tôi bảo nói ra không ai hiểu cho.
Nhưng chỉ có một điểm nho nhỏ mà dân chúng miền Nam không để ý. Đó là:
nếu dân di cư nói dối, tại sao cả triệu người đều nói dối giống nhau.
Làm sao mà tất cả mọi người đủ mọi thành phần, trí thức, thất học, nông
dân, thợ thuyền, buôn thúng bán bưng, lại có thể kể lại rành mạch từng
chi tiết giống nhau đến thế. Chỉ một điểm nhỏ thế thôi mà phải đợi đến
những năm sau 75, dân miền Nam mới hiểu thấu đáo được hai chữ cộng sản.
Bây
giờ nói đến bài viết của ông. Với tầm hiểu biết thô thiển, tôi nhận
thấy một vài điều nực cười trong bài viết “Thổn Thức cho VN” của ông
Toại.
1.
Sau bao nhiêu năm, ông nhận thấy ông chọn lầm lý tưởng. Ông vượt biển, ở
Mỹ, ung dung ngồi viết bài để tưởng nhớ quê hương. Vậy mà đặt bút
xuống, ông vẫn gọi chế độ Thiệu là bù nhìn.
Trước
hết phải định nghĩa hai chữ “bù nhìn” (puppet). Bù nhìn để chỉ một
chính quyền (hay một người) cậy nhờ vào một chính quyền khác (hoặc người
khác) mạnh hơn để sống còn, và phải luôn thi hành theo ý của họ. Theo
định nghĩa đó, có thể ông Thiệu bù nhìn trên một vài phưong diện. Lấy ví
dụ, Hiệp định (HĐ) Balê ký kết năm 1973. Ông Thiệu không hề muốn ký vào
HĐ này, vì những điều kiện trong HĐ hoàn toàn bất lợi cho VNCH. Mỹ đã
liên minh với Tàu để dựng lên HĐ Balê, hầu chống lại Liên sô và “ban”
cho Tàu cái quyền “làm vua” ở Đông nam á. Ông Thiệu biết ký vào là tự
mình giết mình. Nhưng ông không làm gì được. Ông Thiệu phải ký. Ông phải
nghe lời Mỹ ký vào bản án tử hình chỉ vì mớ súng đạn dư thừa Mỹ đem bố
thí cho miền Nam hằng năm. Mỹ ép, nếu không ký là không viện trợ. Và hậu
quả thì ông biết rồi, chỉ cần 2 năm sau, Mỹ lật lọng hoàn toàn cắt viện
trợ không thương tiếc, cho dù chỉ một viên đạn.
Hiểu
bù nhìn theo nghĩa đó thì chính quyền Thiệu đôi lúc bị ép một cách oan
uổng như thế. Bây giờ mời ông quay trở lại năm 1954 ở miền Bắc nhé. Bà
Nguyễn thị Năm, một người giàu có từng giúp Việt minh rất nhiều. Nhiều
cán bộ ăn dầm ở dề nhà bà, trong đó có ông Hồ. Bà có anh con trai là sĩ
quan trong Quân đội Nhân dân, anh hùng trận Điện biên vừa thắng thực dân
Pháp vẻ vang. Thế mà ông Hồ vẫn ký giấy lôi bà ra pháp trường để đấu
tố. Tại sao ông Hồ lại độc ác và tàn nhẫn đến thế? Thưa cũng vì số súng
đạn viện trợ của Tàu. Không đấu tố bà Năm thì Tàu không viện trợ nữa. Vì
mớ súng đạn đó mà ông Hồ giết bà Năm, và hàng trăm nghìn cái chết oan
khiên khác xảy ra trong suốt thời kỳ đấu tố mà thiết tưởng tôi không cần
kể thêm nữa.
Tôi
hỏi ông, thế thì chính quyền nào bù nhìn hơn? Và hơn 1 triệu người Bắc
bỏ hết mồ mả cha ông di cư vào miền Nam năm 1954 mang theo những câu
chuyện tàn ác thương tâm như thế “làm quà” cho dân chúng miền Nam. Thế
mà ông và dân của ông bảo là bọn Bắc kỳ dối trá. Thật là nực cười, Bắc
kỳ di cư thì ông không tin, còn Bắc kỳ việt cọng thì ông tin còn hơn tín
đồ Thiên Chúa giáo tin vào Kinh thánh nữa.
2.
Ông mở đầu bài viết với câu, “tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ
của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng
được ủng hộ” (hết trích). Với tất cả hệ quả do ông và những kẻ đồng thời
với ông để lại cho nước VN như bây giờ mà ông chỉ buồn rầu thôi sao.
Ông
đứng lên tranh đấu để đạp đổ một chính quyền (dưới mắt ông) không hoàn
thiện. Ông tin rằng nước VN sẽ rạng rỡ hơn khi quyền hành nằm trong tay
những người cộng sản. Thế mà khi tiền đồ của đất nước xoay chuyển sang
một hướng khác không theo ý ông mong ước, ông lại vượt biên. Đúng ra,
ông phải ở lại để “hưởng” những “thành quả” của ông chứ. Ông có gan
chống đối bất công, thì ông cũng phải có can đảm để nhìn thẳng và hệ lụy
do ông tạo ra chứ.
Hai
chữ “cách mạng” quý lắm. Đi làm cách mạng với hoài bão xây dựng một đất
nước hùng cường hơn, vững mạnh hơn. Tiếc thay, một số khoa bảng miền
Nam như LS Nguyễn hữu Thọ, KTS Huỳnh tấn Phát, BS Dương Quỳnh Hoa, ông
Trương như Tảng, ông Nguyễn công Hoan, và cả ông học nhiều hiểu rộng,
bằng cấp đầy mình… thế mà vẫn không hiểu được 2 chữ “cộng sản”, trong
khi những bằng chứng bày ra đầy trước mắt. Các ông giống như con đà điểu
vùi đầu vào cát không muốn tìm hiểu sự thật, để rồi lúc cuối đời phải
than lên, “tôi buồn rầu…” Thú thật, số vốn hiểu biết về chính trị của
ông và những nhà khoa bảng miền Nam không bằng kinh nghiệm chính trị của
một thanh niên miền Bắc. Đó là sự thật, ông ạ! Hy vọng ở tuổi này ông
cũng nhận ra chân lý ngàn đời không thay đổi đó.
Ông
và những “đồng chí” của ông quyết liệt phá bỏ một miền Nam tương đối
vững mạnh, và hân hoan trao quyền cho những người cộng sản. Họ giống ông
ở điểm cũng bất mãn với chế độ (như bà Dương Quỳnh Hoa) khi vận mệnh
nước nhà rẽ sang một hướng khác với hướng mà ông (ngây thơ) đề nghị với
nhà nước cộng sản. Nhưng họ khác ông ở điểm là họ vẫn ở lại trên quê
hương để sống, để chứng kiến cảnh đổi đời. Một vài người trong nhóm của
ông giờ này vẫn còn can đảm đứng lên (như thuở nào) để chống đối bất
công đang xảy ra nhan nhản trên quê hương. Họ vẫn theo đuổi lý tưởng
“cách mạng” của họ một cách trung thành. Trong một chừng mực nào đó, tôi
vẫn còn phục những người này.
Còn
ông, khi sự việc không xảy ra theo ước mơ của ông thì ông nhanh chân
đào thoát bằng thuyền. Ông có nhận ra điểm nực cười đó không? Ông thẳng
tay tàn phá một chế độ cưu mang ông, gia đình ông rồi đến hồi chung cuộc
ông lại chạy trốn là thế nào? Trước 75, ông không bị động viên, ông
rảnh rang ở hậu cứ, để rồi xúi giục sinh viên xuống đường chống đối
chính quyền. Ông còn khoe đã đi thuyết trình ở các đại học Mỹ danh tiếng
để tìm hậu thuẫn hầu phá đổ chính quyền VNCH cho bằng được. Sau 75, sự
bất mãn khiến ông bỏ ngang con đường “cách mạng” của ông. Đường nào ông
cũng sống được. Có bao giờ ông nghĩ ông đúng là kẻ cơ hội chủ nghĩa
không? Sự nghiệp “cách mạng” của ông đã làm Mẹ VN sống dở chết dở. Đến
lúc Mẹ nằm xuống, ông không dám về chịu tang, tạ tội với người Mẹ nhưng
từ phương xa, ở Mỹ, có thì giờ rảnh rỗi, ngồi ở phòng khách, bên ly cà
phê, ông ung dung ngồi viết “Thổn Thức cho VN” bày tỏ lòng thương tiếc
người Mẹ đã khuất. Trong một chừng mực nào đó, tôi chê ông hèn.
Chọn
lầm lý tưởng cho đời mình chỉ gây tại hại cho một cuộc đời. Chọn lầm lý
tưởng để phục vụ cho một đảng phái chỉ gây tai hại cho một thế hệ.
Nhưng chọn lầm lý tưởng – như ông – để phục vụ cho một chủ thuyết gây
tai họa cho cả một dân tộc. Mãi mãi, ông và những nhà khoa bảng miền Nam
chỉ là những hòn gạch lót đường cho những tay làm chính trị lão luyện
hơn. Thân phận chính trị sa-lông của ông chỉ như chậu kiểng chưng ở
phòng khách với vẻ cái mác phản chiến hào nhoáng bên ngoài. Tiếc thay,
đến thời chung cuộc, chậu kiểng đã hoa tàn nhụy rữa nên chỉ đáng ném vào
sọt rác. Xin lỗi, tôi nói ra hơi thừa, vì năm 1976, họ đã ném tất cả
các ông vào sọt rác rồi.
Tôi
khuyên ông đừng “thổn thức cho VN” nữa, nhưng hãy tự thổn thức lương
tâm của chính ông. Ông viết bài tố khổ một chế độ cho ai hiểu đây? Nếu
cho chúng tôi thì ông làm công việc hơi thừa vì chúng tôi đã hiểu hai
chữ “cộng sản” từ lâu rồi. Từ năm nào nhỉ? À, cái năm chúng tôi di cư
vào Nam đấy, năm mà các ông bảo chúng tôi là nói dối đấy.
Tôi
khuyên ông đừng bao giờ viết “Thổn Thức cho VN” nữa. Và cũng đừng buồn
rầu suông nhưng hãy tự đấm ngực ăn ăn tội tày trời ông và đám trí thức
miền Nam đã phạm đối với tiền nhân, và với dân tộc.
Chào ông.
Thổn thức cho Việt Nam
Đoàn Văn Toại
Đoàn Văn Toại
Bây
giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây
thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng
đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm
thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Khi
cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt
di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột
cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không
tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về
những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag
Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là
những luận điệu tuyên truyền chống Cộng. Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho
xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã
từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử
thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
Kể
từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một
tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt
Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn
nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng
này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người
Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp.
Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan
chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải
chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học
trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ
ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách
thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng
lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Vietnam, A portrait of its people at war
Khi
các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh
viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi
hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu
và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã
làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động
phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt
động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu.
Vào
thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc
lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một
tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam.
Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn
Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những
cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được
Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng
chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo,
nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có
được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.
Với
tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát
vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình.
Một
cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt
Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp
trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy,
tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự
tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy
choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ
cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt
đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương
chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc,
không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối
cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và
các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các
lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ
cùng niềm tin với tôi.
Niềm
tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm
1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải
phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân
không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các
người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời
gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc
với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi
tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình
hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN (Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi
đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong
gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ
phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).
Sau
khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền
Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao
gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh
tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm
vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả
các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, và đề nghị
chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính
quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân
phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến
tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ, dĩ
nhiên..
Tôi
đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng
họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản. Tôi đã tranh
đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà
Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác
với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất
thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có
chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt
các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến.
Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt
Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức.
Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản.
Một
ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa
đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động
của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng
chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”.. Nhiều ngày sau đó,
trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây
là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh
viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không
có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra. Sau khi Sài Gòn
thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các
phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại
dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng
chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ
đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự
trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầmn quyền cộng sản đã bắt giam
hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ
Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các
cựu thành viên MTDTGPMN.
Việt
Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là
sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực. Không hề có cái
gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố
cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được
giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ
chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần
biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh
tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không
bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ
được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính
trị? Không ai có thể biết được con số chính xác. Bộ Ngoại giao Mỹ cho
rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn
thì ước đoán con số đó là 1 triệu.
Hoàng
Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một
trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn
trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông
đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù
nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong
Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào
năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử
tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông.
Vào
năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị
bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng
trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số
ra ngày 22/9/1978, “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1
triệu tù nhân từ các trại cải tạo.” Người ta có thể tự hỏi làm thế nào
có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!
Tôi
bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay
phải xiềng vào chân trái. Thứ ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi
khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được
cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã
khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng
nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và
tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.
Sau
2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m
x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây
chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân
trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng
tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ
một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi
ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.
Vào
tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù
của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ
đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai,
không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang
cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh, “Không có gì quý
hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là
biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân
đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và
người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.
Chúng
ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng,
nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những
người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với
người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào
tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản
chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải
thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt
động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6
tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của
Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời
Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng
sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ
trong trại cải tạo. Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của
triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean
Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại
Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là
những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những
người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa
bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.
Một
số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết
này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt
Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng
nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi
vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục
tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay
tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như
Việt Nam.
Mọi
người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào
Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một
số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân
chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các
nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một
nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ
chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả
Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler
nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ
nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của
Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập
luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập,
“Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
Còn
có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà
người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu
tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng
như hiện nay đều độc lập với Liên Sô.. Tôi cũng là người tin như vậy
trước khi cộng sản chiếm miền Nam.Nhưng rồi
chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư,
trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại,
người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được
treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức
độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể
hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu,
thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân
cái chết của Stalin:
‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười’.
(Đời đời nhớ ông – Tố Hữu).
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười’.
(Đời đời nhớ ông – Tố Hữu).
Thật
là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam,
một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái.
Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ
ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội.
Hơn
thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài
diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất
năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam
kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm
1971 đã viết, “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của
một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng
sản Việt Nam.
Sau
khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các
nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ
đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không
ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus
và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret
Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế
những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và
người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã
hội chủ nghĩa”.
Một
lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề
tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được
đưa ra vào năm nay, có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã
nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ
chế độ nào trên thế giới”.
Ngược
lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính
báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân
theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà
thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng
phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân
chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích
Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng
sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang
định cư tại Los Angeles. Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc
chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và
nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times
viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với
ông, “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ
không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury,
“Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn
thôn tính miền Nam.
Vậy
mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê
Duẩn đã nói, “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã
tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt
Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.
Trong
bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày
26/05/1976, Lê Duẩn nói, “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta
trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến
nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa
cộng sản”.
Vào
năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá
sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của
những người cộng sản. Ngày nay,trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và
134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người
nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT,
chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với
nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng
ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời.
Trương Như Tảng
Nguồn: A Vietcong Memoir
Nguồn: A Vietcong Memoir
Hãy
nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ
trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một
thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12,
1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh
nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm
trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân
cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông, “Tại sao
con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để
gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và
sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một
nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự
hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của
đất nước”.
Sau
cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá
tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã
viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự
ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong
cuộc họp báo. “Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi
đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt
quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam
lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai
lầm”.
Trương
Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh
đạo cộng sản cai trị,“Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu
dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm
được chính quyền. Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở
thành sắt máu và tàn nhẫn”. Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay,
“Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
Bây
giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây
thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng
đáng được ủng hộ. Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm
thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi
nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi.
Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các
người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm
với tôi.
Khi
tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói
chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với
chúng tôi, “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ
nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính
nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì
chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân,
Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã
kết luận, “Yếu tổ chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng
của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai
trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng
sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa
các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự
thật”.
Và
quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm
đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô
xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự
phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng,
người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài.
Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu.
Nhưng
ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, “Đừng nghe những gì cộng
sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Một trong những người Nam
Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời
Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn
đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải
sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt,
Sài Gòn, ông đã nói với tôi, ‘Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được
thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà
tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi
đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự
do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có
thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.
Ước
mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn
chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng
ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời
thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh
nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn
không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ
xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ
hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu
thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976,
“Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng
được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi
từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố,
“là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ
biết nói không”.
Giữa
các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và
những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có
người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối
tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai
muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề
như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.
SƠN NGHỊ