Tuesday, July 31, 2018

Bài Học Diệu Kỳ Từ Chiếc Xe Rác - Cả Giận Mất Khôn -

Bạn có dễ bị tác động bởi cách hành xử của người khác không? Liệu một tài xế taxi chạy ẩu, người phục vụ bàn thô lỗ, người quản lý nóng nảy hay một đồng nghiệp vô ý có phá hỏng một ngày tốt đẹp của bạn không? Trừ khi bạn là một cỗ máy, nếu không chắc hẳn bạn sẽ bị sốc. Tuy vậy, khả năng thành công của bạn phụ thuộc vào việc bạn có biết cách nhanh chóng tập trung vào những mục tiêu quan trọng của mình và bỏ qua những rắc rối vụn vặt hay không.
Hai mươi năm trước, tôi đã nhận ra chân lý đó khi ngồi ở băng ghế sau của chiếc taxi đang chạy trên đường phố New York. Chiếc xe chở tôi đang đi ở làn bên phải thì bất thình lình, một chiếc xe màu đen lao nhanh ra cắt ngang đường đi của chúng tôi. Bác tài xế taxi vội đạp phanh. Tiếng lốp xe rít lên trên mặt đường ken két và chiếc xe taxi đứng khựng lại, cách đuôi chiếc xe phía trước chỉ một đốt ngón tay. Tôi choáng váng, không dám tin vào chuyện vừa xảy ra. Nhưng những gì diễn ra sau đó mới thật sự khiến tôi sững sờ. Người đàn ông điều khiển chiếc xe phía trước – người suýt chút nữa đã gây ra một vụ tai nạn nghiêm trọng – thò đầu ra cửa xe và lớn tiếng chửi bới bằng đủ lời lẽ thô thiển, tục tĩu.
Vậy mà bác tài đang chở tôi mỉm cười rồi vẫy tay chào tạm biệt gã lái xe kia. Tôi chú ý thái độ của bác – rất thân thiện. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Sao bác hiền thế? Gã đó suýt giết chết chúng ta mà”. Bác tài trả lời, giọng bình thản:
“Có những người giống như ‘chiếc xe rác’ vậy: Họ chứa trong mình đầy ‘rác rưởi’ – sự thất vọng, tức giận và chán nản. Và tất nhiên, họ phải tìm chỗ để trút bỏ mớ rác rưởi đó. Nếu thấy họ trút lên bạn thì bạn đừng đón nhận. Hãy mỉm cười, vẫy chào và chúc họ vui rồi tiếp tục công việc của mình, Cứ tin tôi đi và bạn sẽ thấy hạnh phúc hơn.
Câu trả lời của người lái xe taxi làm tôi nảy sinh ý tưởng về điều mà tôi gọi là “Bài học diệu kỳ từ chiếc xe rác”. Tôi bắt đầu nghĩ: “Tôi có thường để cho những ‘chiếc xe rác’ ảnh hưởng đến cuộc sống của mình không? Và tôi có thường nhận lấy mớ ‘rác rưởi’ này rồi mang đến phát tán tại nơi làm việc, ở nhà, hay trên đường phố không?”. Rồi tôi tự nhủ tôi không muốn “làm bẩn” cuộc sống của người khác, tôi cũng không muốn hứng “rác” của bất kỳ ai. Với phương châm sống như vậy, cuộc sống của tôi đã có những thay đổi tích cực đáng kể.
Khi viết quyển sách này, tôi đã ấp ủ nhiều dự định. Mục đích của tôi là mong bạn không bị những nguyên nhân vụn vặt cản trở con đường hoàn thiện bản thân. Tôi muốn bạn biết cách bỏ qua những điều tiêu cực nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Tôi muốn bạn hãy trân trọng những điều tốt đẹp đang hiện hữu trước mắt.
Tôi muốn chúng ta cùng chung sức làm cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn. Tôi viết cuốn sách này để kết nối với mọi người. Tôi muốn cuốn sách này đến với mọi người ở mọi quốc gia, mọi thành phố và mọi làng mạc trên khắp hành tinh của chúng ta. Tôi muốn cuốn sách giúp chúng ta thay đổi cách thức liên hệ với nhau, ở nhà cũng như ở nơi làm việc. Tôi muốn chúng ta kiến tạo và duy trì một thế giới hòa bình, cảm thông và hạnh phúc hơn.
Tôi viết cuốn sách này cho những ai muốn kiểm soát cuộc sống của mình.

Bài Học Diệu Kỳ Từ Chiếc Xe Rác

Tác giả: David J.Pollay

Danh mục: Quà Tặng Cuộc Sống

Sưu Tầm 

Phi vụ "Cò Trắng" và những nấm mồ còn lại / Biệt Kích Nhảy Bắc Thượng Sĩ Trần Phúc Lộc

Phi vụ "Cò Trắng" và những nấm mồ còn lại / Biệt Kích Nhảy Bắc Thượng Sĩ Trần Phúc Lộc

Phi vụ "Cò Trắng" và những nấm mồ còn lại
LTS: Vào năm 1961, Không Quân Việt Nam có hai chiếc C-47 sử dụng riêng cho những phi vụ đặc biệt thả các toán biệt kích thâm nhập lãnh thổ Bắc Việt, trong đó Trung Úy Phan Thanh Vân là một trong những trưởng phi cơ. Phi vụ "Cò trắng" nói tới ở đây đã được Phan Thanh Vân viết lại trong hồi ký "Người về từ cõi chết". (Bài viết của “Cò Trắng” Phan Thanh Vân, kể lại mọi chi tiết từ khi máy bay bị cháy và rớt xuống đất, chúng tôi sẽ đăng lại sau bài viết này).
Sở dĩ các phi vụ này được đặt tên "Cò Trắng" vì hai chiếc C-47 đã được tẩy xóa màu cờ, các huy hiệu, chỉ để lại toàn thân máy bay một màu nhôm trắng.
Gần đây Lý Tưởng Úc Châu nhận được một số tài liệu cũng như nhiều hình ảnh liên quan đến phi vụ nói trên, Ban Biên Tập xin đúc kết các tài liệu này với mục đích phổ biến thêm chi tiết về số phận của phi hành đoàn, và cũng để tưởng nhớ, tri ân những chiến sĩ Không Quân đã thầm chiến đấu trong bóng tối, đã hy sinh thân mình để thi hành những phi vụ tối mật, ra đi không hẹn ngày về. LT-UC
***
Phi vụ Cò Trắng thực hiện giữa năm 1961 gồm phi hành đoàn 7 người của Không Quân và 3 biệt kích quân. Thành phần phi hành đoàn:
Trưởng phi cơ: Trung úy Phan Thanh Vân
Hoa tiêu phó: Trung úy Phan Khắc Thích, Thiếu úy Trần Minh Tâm
Điều hành viên: Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu
Cơ Khí Viên: Thượng sĩ I Phạm Văn Đăng
Vô Tuyến Viên: Trung sĩ Nguyễn Văn Nở
Các biệt kích quân gồm: Thượng sĩ Trần Phúc Lộc, Thượng sĩ Đinh Như Khoa, và Trung sĩ Nguyễn Văn Tiết.
* * *
Vào đúng Ngày Không Quân VNCH (1 tháng 7) năm 1961, chiếc “Cò Trắng” cất cánh với nhiệm vụ tiếp tế cho một toán biệt kích đã được thả trước đây, và phi cơ đã bị rớt vào lúc 1 giờ 15 phút sáng ngày 2 tháng 7 tại xã Cồn Thoi, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.
Theo lời kể lại của ông Phạm Lâm, trùm họ đạo Kim Sơn, khi ông đi giăng câu trên cánh đồng ngập mặn ven biển, cách khu vực dân cư khoảng 5 cây số, thì vào lúc hơn nửa khuya, ông nghe tiếng động cơ máy bay, nhìn lên trời thì thấy một chiếc máy bay đang bốc cháy và lao xuống, sau đó tiếp tục cháy trên mặt đất. Đến gần sáng, tự vệ nông trường Bình Minh mới ra đến chỗ máy bay rớt, bắt giữ sáu người còn sống, tất cả đều bị thương; một người khác còn tương đối khoẻ, sử dụng thuyền cao su bơi trốn nhưng cũng đã bị du kích xã kế bên bắt giữ.
Ba người thiệt mạng tại chỗ là: Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu và Trung sĩ Nguyễn Văn Nở. Trong số này, hai người chết cháy vì bị kẹt trong phi cơ nên hài cốt không còn đầy đủ, và một người xác còn nguyên vẹn. Tất cả được chôn gần chỗ máy bay rơi (không có hòm).
* * *
Trong số bảy người còn sống và bị bắt, Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến vì bị thương nặng nên một ngày sau đã chết tại trạm xá của nông trường Bình Minh và đã được ông Phạm Lâm đích thân khiêng đi chôn (cũng không có hòm).
Sáu người còn sống được Công An đưa về Hà Nội bằng xe tải và bị giam tại Hỏa Lò. Các nhân chứng có nhiệm vụ áp giải sáu người này kể lại rằng khi về đến Hà Nội thì tất cả vẫn còn sống, nhưng đến khi Cộng Sản Bắc Việt đưa ra tòa xét xử thì chỉ còn có 3 người là các anh Phan Thanh Vân, Đinh Như Khoa và Phạm Văn Đăng, còn anh Trần Minh Tâm thì đã chết vào ngày 4/7/1961, anh Nguyễn Văn Tiết chết ngày 2/8 và anh Trần Phúc Lộc đã chết ngày 28/11 -tất cả đều chết tại bệnh viện 108 Hà Nội. Và cả ba đã được Hà Nội chôn cất có mộ bia tử tế!
Sở dĩ ba người này được chôn cất tử tế là vì đây là lần đầu tiên một phi cơ thả biệt kích của miền Nam ra Bắc hoạt động đã bị rớt nên Hà Nội muốn làm lớn chuyện để công bố cho quốc tế biết. Và cũng chính vì thế, CSBV đã “chu đáo” cho Công An đưa hòm về Kim Sơn, đào xác Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến lên bỏ vào hòm để chôn lại!
Cũng nên biết trước phi vụ “Cò Trắng” này đã có nhiều toán biệt kích bị CSBV bắt giữ như các toán Caster, Echo, Dido..., nhưng vì không có xác phi cơ nên họ chưa muốn làm lớn chuyện, vì thế danh tính của các biệt kích quân đã được họ giữ kín; tất cả đều bị giam giữ hơn 10 năm, có người mãi tới năm 1976 mới được thả.
* * *
Lần này, với bằng chứng quả tang, Hà Nội đã ra sức thổi phồng vụ án, thông báo cho các giới chức ngoại giao, đưa ba người còn sống ra xét xử công khai tại Hà Nội và triển lãm các tang vật tại Ninh Bình.
Vì xét xử công khai, các anh đã có án tù rõ ràng: Trung úy Phan Thanh Vân 7 năm tù, Thượng sĩ Phạm Văn Đăng 3 năm, Thượng sĩ Đinh Như Khoa 15 năm. Các anh đã bị giam tại trại Bắc Bạc (Ba Vì, Sơn Tây) và sau đó chuyển đến trại Phố Lu (Lào Cai). Tới năm 1971, sau 10 năm tù giam và quản thúc, Trung úy Phan Thanh Vân đã được Hội Hồng Thập Tự Quốc tế can thiệp trả tự do và sang Pháp đoàn tụ với gia đình.
* * *
Cho tới nay, có nhiều giả thuyết về nguyên nhân đã khiến chiếc “Cò Trắng” bị rớt. Phối hợp hồi ký của Trung úy Phan Thanh Vân (...máy bay tự nhiên rung giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì...) cũng như lời của các nhân chứng - cả dân chúng lẫn Công An địa phương – thì máy bay đã tự bốc cháy và rớt. Tuy nhiên, CSBV vì muốn thổi phồng sự việc nên đã tuyên truyền là phi cơ bị súng phòng không bắn hạ; và hiện nay họ vẫn trưng bày các hiện vật còn sót lại của chiếc C-47 nói trên tại Bảo Tàng Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân tại Hà Nội, để chứng minh cho chiến công “tưởng tượng” của mình!
Điều đáng tiếc là một vài tác giả Mỹ cũng căn cứ vào tuyên truyền của CSBV để viết rằng chiếc Cò Trắng nói trên bị phòng không bắn hạ.
Về nguyên nhân đã khiến phi cơ tự bốc cháy, có giả thuyết cho rằng do nội tuyến phá hoại. Khoảng cuối thập niên 1980, một tay nội tuyến VC đã kể lại trên một tờ báo ở Sài Gòn rằng vào năm 1961, anh ta là lính bảo trì phi cơ của Không Quân miền Nam và đã gài “pan” vào một phi cơ chở biệt kích ra Bắc và phi cơ này đã bị rớt. (‘Pan’ này được gài trong bộ phận nhiên liệu của động cơ, khi tới không phận Bắc Việt, nhiên liệu bị rò rỉ tiếp xúc với sức nóng của động cơ đã khiến phi cơ bốc cháy).
Nhưng dù sao, trước sự kiện có vô số “chiến công tưởng tượng” được thêu dệt sau khi CSBV chiếm được miền Nam, người ta cũng phải đặt dấu hỏi về “thành tích” của tay thợ máy nội tuyến này.
* * *
Về số phận của các ngôi mộ của phi hành đoàn, trước hết nói về ba người bị thiệt mạng tại chỗ là: Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu và Trung sĩ Nguyễn Văn Nở. Ngày ấy, tất cả được chôn vội vã gần chỗ máy bay rơi, không xác nào có hòm.
Tới năm 1980, một người dân khi đào ao đã đào được một hài cốt còn nguyên vẹn, mặc áo màu đen, trên vai áo có phù hiệu. Cha xứ của nhà thờ đá Kim Sơn cho bốc hài cốt lên đem về nhà thờ dự tính đưa vào miền Nam cải táng, nhưng đã bị công an xã giữ lại và cho chôn tại nghĩa địa xã. Người giáo dân trực tiếp bốc mộ đã bị Công An giam giữ hơn 3 tháng. Riêng cha xứ sau này vào miền Nam, sống ở nhà thờ Phát Diệm ở Gò Vấp, Sài Gòn.
Phối hợp lời kể của các nhân chứng năm 1961 và sự mô tả của chủ nhà - tức người đào ao sau này – người ta tin rằng hài cốt nói trên là của Trung sĩ Nguyễn Văn Nở, vì Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu bị kẹt trong phi cơ, chết cháy nên hài cốt không còn nguyên vẹn.
Như vậy, có thể tạm thời đi tới kết luận hiện nay cố Trung sĩ Nguyễn Văn Nở đang yên nghỉ tại Kim Sơn, Ninh Bình, còn hài cốt của Trung úy Phan Khắc Thích, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu thì vẫn còn nằm đâu đó dưới mặt đất, gần cái ao nói trên.
Người chủ nhà cũng kể lại rằng cho tới nay, thỉnh thoảng oan hồn của hai người vẫn còn hiện về ngồi ở gần bờ ao của nhà họ.
Mộ của Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yến – người đã chết tại trạm xá của nông trường Bình Minh, được ông trùm Phạm Lâm chôn và sau đó được CSBV đào lên bỏ vào hòm chôn lại - thì hiện nay vẫn được ông chăm sóc.
Về ba người “may mắn” được CSBV chôn cất tử tế, thì hài cốt của Thiếu úy Trần Minh Tâm đã được gia đình cải táng đem về miền Nam,
chỉ còn lại mộ của hai biệt kích quân - Thượng sĩ Trần Phúc Lộc, và Trung sĩ Nguyễn Văn Tiết (với tên tuổi rõ ràng trên mộ bia).
* * *
Trong số thân nhân của phi hành đoàn “Cò Trắng”, một số nhỏ may mắn được biết về việc Bộ quốc Phòng Mỹ “bồi thường”, đã làm thủ tục và được hưởng quyền lợi. Tuy nhiên đa số đã thất tung, và cho tới nay các cá nhân cũng như Hội đoàn Không Quân không có một manh mối nào để có thể liên lạc giúp đỡ, hướng dẫn cách làm thủ tục.
Chẳng hạn trường hợp của em Phan Khắc Đức (năm nay đã 48 tuổi), con trai của cố Trung úy Phan Khắc Thích. Niên khóa 1973-1974, Đức học lớp 9 tại Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, mẹ - tức phu nhân của Trung úy Thích - là y tá phục vụ trong phi trường TSN. Sau biến cố tháng 4/1975, gia đình phải dọn ra cư ngụ tại một hẻm nhỏ tại Ngã Ba Ông Tạ, Đức phải nghỉ học đạp xích lô để sinh nhai... Từ đó tới nay, không còn một mối liên lạc nào có thể tìm lại được gia đình hay thân nhân của cố Trung úy Phan Khắc Thích để được Bộ Quốc Phòng Mỹ bồi thường!
* * *
Thay lời kết, chúng tôi hy vọng, dù rất mong manh, sẽ có chiến hữu hay vị độc giả nào đó biết được, hoặc rồi đây may mắn tìm ra tung tích của gia đình hoặc thân nhân của phi hành đoàn “Cò Trắng” và các chiến sĩ Biệt kích tham gia phi vụ, để thông báo về tình trạng những ngôi mộ của người thân, cũng như những quyền lợi mà họ xứng đáng được hưởng do công lao xương máu của những người đã nằm xuống cách đây 45 năm.
Trong trường hợp sự việc tốt đẹp ấy xảy ra, Tòa Soạn Lý Tưởng - Úc Châu sẽ cung cấp chi tiết để tìm mộ – những chi tiết mà chúng tôi không tiện phổ biến trên trang báo này.
Melbourne, tháng 12/2006
Ban Biên Tập LT-UC
(tổng hợp theo các tài liệu)
* * *
Các chi tiết và tài liệu viết thêm:
* Theo hồi ức của Trung Tá KQ N.U., trước phi vụ của Cò Trắng của Trung úy Phan Thanh Vân đã có một chiếc C-47 cũng thi hành nhiệm vụ thả biệt kích quân và đã mất tích trên không phận Bắc Việt. Phi hành đoàn gồm có:
Hoa tiêu: Trần Văn Hội và Lê Chí Nguyện
Điều hành viên: Nguyễn Đăng Lợi
Vô tuyến phi hành: Đức (không nhớ họ)
Cơ phi: (không nhớ tên)
Ngoài ra còn có một chiếc C-123 trong khi bay đêm thực tập thả biệt kích tại núi Sơn Chà gần Đà Nẵng đã bị tai nạn và toàn bộ phi hành đoàn đã hy sinh, gồm:
Hoa tiêu: Lê Tuấn Kiệt và Hồ Văn Ứng Kiệt
Điều hành viên: Lê Lãnh Hưng - Vương Văn Chức - Nguyễn Tấn Tập
Cơ phi: Đạt (không nhớ họ)
Ngoài ra còn một huấn luyện viên Hoa Kỳ.
Sau tai nạn này, Hoa Kỳ đã thuê mướn thêm các phi hành đoàn Trung Hoa (Đài Loan) để thi hành các phi vụ thâm nhập lãnh thổ Bắc Việt.
* Theo cuốn "Spies and Commandos" của hai tác giả Kenneth Comboy và Dale Andradé (do sưu tầm viên Phạm Anh Tài cung cấp), ngày ấy chỉ có độc nhất một chiếc C-47 Cò Trắng và được lấy một ngụy danh là "Vietnamese Air Transport" gọi tắt là VIAT, lúc đó do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy, và đã có 20 phi công tình nguyện thi hành những phi vụ này dưới mật danh “Haylift”.
Mặc dù là các phi công dày dạn kinh nghiệm trong các phi vụ chuyển vận, nhưng khi bay ra phía Bắc họ cần phải được hướng dẫn thêm. Bởi khi bay ra Bắc, phi hành đoàn sẽ phải bay những phi vụ kéo dài tưởng như vô tận, bay ở một cao độ thấp đến địa điểm thả biết kích mà không hề được trang bị các phi cụ hiện đại. Đó là chưa kể yếu tố thời tiết xấu vào mùa mưa lớn, địa hình núi non hiểm trở đã tạo thành một phi trình nguy hiểm và tồi tệ nhất trên thế giới. Vẫn theo hai tác giả này, phi vụ Cò Trắng nói trên có nhiệm vụ thả xuống tiếp tế cho toán Castor (đã được thả xuống Bắc Việt khoảng một tháng trước). Trung úy Phan Thanh Vân cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi xế chiều, sau khi tiếp tế thêm nhiên liệu tại phi trường Đà Nẵng, phi cơ trực chỉ ra Bắc, không hành thì chỉ nhìn qua cửa sổ bay theo địa hình địa vật dưới đất xuyên qua các rặng núi thấy được qua ánh trăng để tìm ra bãi thả hàng mà toán Castor đánh dấu - phi trình này trước đây đã được sử dụng khi thả dù các toán Castor và Dido.
Thật sự thì toán này đã rơi vào tay giặc, và người trưởng toán đã bị CSBV ép buộc gởi tín hiệu về BUGS, một trạm tiếp vận truyền tin ở Phi Luật Tân để báo tin toán vẫn an toàn và cần phải được tiếp tế ở một địa điểm do họ chỉ định. Bốn ngày sau khi liên lạc, chiếc Cò Trắng đã lên đường thi hành nhiệm vụ và đã rơi vào bẫy của địch. CSBV đã bố trí sẵn súng phòng không tại đảo Hòn Me, một đảo nhỏ nằm cách đất liền 6 cây số ngoài bờ biển Ninh Bình. Kết quả, phi cơ đã bị bắn nát phần đuôi, bốc cháy và rơi trong đất liền khoảng 20 cây số.
* * *
Ở đây chúng tôi không bàn cãi về việc vào năm 1961, có 1 hay 2 chiếc C-47 được sử dụng cho các phi vụ “Cò Trắng” (bởi có thể hai tác giả Kenneth Comboy và Dale Andradé đã chỉ căn cứ vào sự kiện: lúc nào cũng chỉ có một chiếc “Cò Trắng” SẴN SÀNG ĐỂ SỬ DỤNG); cũng không bình luận về sự việc toán biệt kích bị CSBV cưỡng bách hợp tác, mà chỉ nói về chi tiết mâu thuẫn liên quan tới việc phi cơ bị rớt.
Tất cả các nhân chứng (dân làng, công an về hưu) đều kể lại rằng họ không hề nghe thấy tiếng nổ, mà chỉ thấy phi cơ tự bốc cháy, và bay từ đất liền hướng ra biển.
Nếu quả thực phi cơ “bị bắn nát phần đuôi, bốc cháy và rơi xuống đất liền...” như cuốn Spies and Commandos đã viết thì chắc chắn tất cả mọi người trên phi cơ đã phải chết tan xác chứ không thể chỉ có 3 người chết tại chỗ mà thôi!
Bên cạnh đó, nếu phi cơ rớt ở đất liền “cách bờ biển khoảng 20 cây số” như sách đã viết, thì làm sao có việc “một người khác còn tương đối khoẻ, sử dụng thuyền cao su bơi trốn nhưng cũng đã bị du kích xã kế bên bắt giữ” theo như lời kể của ông trùm họ đạo Kim Sơn?!
Thành thử, chúng tôi cũng nhân tiện xin phép được lưu ý quý độc giả một điều: không phải bất cứ cuốn sách nào của “thế giới tự do” viết về chiến tranh Việt Nam cũng chính xác, cũng đáng tin. Nhất là những cuốn viết trong những năm sau này, thường tham khảo tài liệu, sử dụng dữ kiện của phía CSVN.
Mà “tài liệu, dữ kiện” của CSVN chính xác tới mức nào, chúng ta chỉ cần nhớ lại trong thời gian cao điểm của các cuộc oanh tạc Bắc Việt, tổng số “máy bay của đế quốc Mỹ bị bắn hạ” trong một ngày, được loan truyền trên đài phát thanh nhà nước và các báo của đảng, thường NHIỀU HƠN tổng số phi cơ Hoa Kỳ tham dự các trận oanh kích trong ngày hôm đó!
Sự kiện lố bịch này, sau khi được tạm thời “cởi trói” vào năm 1986, chính một số nhà văn miền Bắc đã đem ra để diễu cợt.
(Ghí chú: Kèm theo bài viết này là các hình ảnh:
1- Thiếu Uý Trần Minh Tâm chụp trước chiếc T-6;
2- Tám khoá sinh KQ chụp trên tàu thủy;
3- Bản sao tờ "Công điện báo cáo mất tích";
4- Bản sao danh sách các KQ và biệt kích bị bắt đăng trên sách của VC;
5- Mộ của Th/sĩ Trần Phúc Lộc 
 










  
 
Nha Kỹ Thuật said...
Bạn Hoà thân, Vài lời thăm hỏi các bạn và chúc các bạn được vui mạnh. Thời gian qua khi chúng tôi biết được thi hài Cố NT. Trần Minh Tâm - copilot trong phi vụ " Cò Trắng" - đã được gia đình cải táng mang về miền nam. Lý Tưởng Úc Châu năm 2006 đã có bài viết , Phi vụ "Cò Trắng" và những nấm mồ còn lại. ( xin xem trong attachment ) Nay , Đặc san Lý Tưởng Úc Châu - KQ. Vũ Văn Bảo, ban biên tập - có nhận được lá thư của anh Trần Phúc Bá là con của cố T/s Trần Phúc Lộc ( gốc Nhẩy Dù và Biệt Kích) đã hy sinh trong Phi vụ "Cò Trắng" cùng với cố NT. Phan Thanh Vân là trưởng phi cơ , với mong ước tìm lại được hài cốt cha anh . Sau khi đã nhờ KQ. Phạm Minh Mẫn và gia đinh cố NT Trần Minh Tâm ( người đã cung cấp tài liệu nơi 2 tấm mộ còn lại tại Bất Bạc, Sơn Tây là : Thượng sĩ Trần Phúc Lộc và Trung sĩ Nguyễn Văn Tiết với tên tuổi rõ ràng trên mộ bia ) liên lạc và tìm hiểu, được biết tình trạng hiện nay của anh Bá rất khó khăn và cần sự giúp đỡ về tài chánh để có thể cải táng đem về miền nam với gia đình. Vì thế, chúng tôi kêu gọi các bạn cùng tiếp tay phổ biến tin tức này tới các chiến hữu khác để chúng ta có thể cùng nhau giúp đỡ để cải táng hài cố chiến hữu Trần Phúc Lộc về với gia đình. Xin hai bạn đứng ra đại diên quyên góp và liên lạc trực tiếp với anh Trần Phúc Bá Mr. Trần Phúc Bá
364/65 đường Thoại Ngọc Hầu , Phường Phú Thạnh , Quận Tân Phú, Saigon
Điện thoại số : 090 842 1871

Xin cám ơn bạn Hoà,
Thân.
pck

Nha Kỹ Thuật said...
Cháu đã liên lạc với anh Bá và qua những lời anh Bá nói với cháu , anh Bá cũng là học sinh trường Quốc Gia Nghĩa Tử như cháu nhưng tốt nghiệp ra trường trước cháu ( hình như 1971 ) . Theo phân loại theo Hội ái hữu QGNT thì anh Bá là Q71 còn cháu là Q75 ( vì năm 75 chưa ra trường , mới lớp 10 ). - Theo lời anh Bá nói thì anh Bá có khó khăn về kinh tế nên sau này không tham dự sinh hoạt Hội QGNT ở VN nữa ( ở VN hàng năm các cựu học sinh QGNT vẫn họp mặt gặp nhau 2-3 lần ) - Việc anh Bá biết tin tức cũa cha là do các bạn học QGNT Q71 ở hải ngoại báo cho anh Bá . Các anh chị QGNT Q74 về trước ở Mỹ có nhiều người rất thành đạt vì trước 74 về trước năm nào cũng có nhiều anh chị QGNT tốt nghiệp tú tài 2 được du học , bị kẹt lại nên hội nhập nhanh và rất khá giả Gửi kèm trong attchment : - TPLộc : hình chụp 1 trang trong sách mang tựa đề " Vụ án C47 của Mỹ Ngụy " sách này do Hànội xuất bản vào khoảng năm 1962 để tuyên chuyền (do cố NT Phan Thanh Vân cung cấp ) - Danh Sách : hình phần phụ lục trong cuốn sách "Đội quân bí mật , cuộc chiến bí mật " nguyên tác bằng tiếng anh và được dịch lại do công an nhân dân vn. ( trong này có nói tới danh sách 10 người trong phi vụ "Cò Trắng" ngày 02 tháng 7 năm 1961 ) thân. pck
Nha Kỹ Thuật said...
Thưa anh Hòa,
Tôi là Vũ Văn Bảo, đại diện cho ĐS Lý Tưởng Úc Châu
Tôi đã nhận và đã chuyển các chi tiết, chứng từ, hình ảnh của Th/sĩ Trần Phú Lộc cho A. Khanh và A. Khanh đã chuyển đến cho anh. Khi có nhận thêm chi tiết nào khác tôi sẽ trực tiếp chuyển đến anh.
Tại Úc thì ĐS LT-UC sẽ nhận nhiệm vụ phổ biến, kêu gọi anh em CQN, đồng bào cùng tiếp tay giúp đỡ cho em Trần Phúc Bá, con trai của Th/sĩ TPL bốc mộ cha mình từ Sơn Tây về với gia đình bằng 1 trong 2 cách: * hoặc gởi $ thẳng về VN cho Bá hay * gởi $ về cho ĐS LT-UC, chúng tôi sẽ tổng kết và gởi chung 1 lượt.
Chúng tôi hiện đang chuẩn bị để bắt đẩu kêu gọi sau cuộc họp định kỳ của Hội KQ vào 9-10-2010 sắp tới.
Với các hiểu biết việc giúp đỡ bốc mộ Đại Úy Trần Tuấn Trung thì phần tài chánh cần vào khoảng từ $700 cho đến $1000 US là đủ, tuy nhiên nếu anh em ủng hộ đóng góp thêm để giúp đỡ cho gia đình Th/sĩ T. P. Lộc là điều chúng ta mong muốn
Vì theo tôi dọ hỏi, chương trình đền bù cho các BKQ hình như đã chấm dứt.
Điều may mắn là em Trần Minh Triết đã chụp ảnh mộ bia của hai chiến sĩ Biệt Kích trong chuyến bốc mộ cha mình là Cố Thiếu Uý Trần Minh Tâm và em biết đường đi Sơn Tây và các người địa phương, việc bốc mộ sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Cầu mong các anh và chúng ta hoàn tất công tác này tốt đẹp để đem hài cốt của 1 vị Niên Trưởng đã hy sinh cho Tổ Quốc và phải nằm nơi xa xôi, lạnh lẽo hơn 50 năm qua.
Kính chào.
Vũ Văn Bảo

Monday, July 30, 2018

Phi Công Phan Thanh Vân

Người bạn hỏi tôi:
–Anh có tin Số Mệnh và Tử Vi không?
Tôi nói:
–Phải chia câu hỏi của anh thành hai câu hỏi: Có tin Số Mệnh không? Có tin Tử Vi không? Tôi tin con người có Số Mệnh nhưng con người không thể biết trước được đời mình sẽ ra sao. Tôi không tin khoa Tử Vi có thể biết trước những việc chưa xảy đến, sẽ xảy đến trong đời một người. Chuyện tại sao tôi không tin Tử Vi là một đề tài khác. Hôm nay tôi mời quý vị đọc chuyện đời của Người Phi Công Không Lực Việt Nam Cộng Hòa Phan Thanh Vân để quý vị thấy như tôi thấy: con người Sống Chết có Số, Người chưa đến Số Chết thì dù có bị rơi vào cảnh Chết 1000/100 vẫn cứ Sống. Phi công Phan Thanh Vân sống những ngày cuối đời ở Virginia-Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích – Virginia is for Lovers – tôi gặp anh PT Vân ở Virginia. Ðây là lời những người bạn phi công của anh viết về anh trong Tập San Lý Tưởng: Ngày 1 tháng 7 năm 1961, Phi công Phan Thanh Vân lãnh một nhiệm vụ đặc biệt: anh thay Phi công Nguyễn Cao Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế cho một đội Biệt Kích VNCH.


Trong chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh bị hỏa tiễn của CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày 2-7- 1961, khi phi cơ đang bay sát từ mặt biển vào đất liền.
Máy bay rơi xuống một nơi thuộc xã Tô Hiệu, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Phi hành đoàn do anh PT Vân chỉ huy và lái gồm 2 phi công phụ: Trung úy Phan Khắc Thích, Thiếu úy Trần Minh Tâm, 2 điều hành viên: Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yên, Chuẩn úy Phạm Trọng Mậu, 1 vô tuyến điện viên: Trung sĩ Nguyễn Văn Nở, 1 cơ khí viên: Thượng sĩ Phạm Văn Ðăng, và 3 Biệt Kích Dù: Thượng sĩ Lộc, Trung sĩ Tiết và Thượng sĩ Khoa, thuộc Phòng 46, Sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ Thuật. Cả thảy 10 người trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống bãi sình lầy, rồi bốc cháy, người chết cháy vì kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi chết sau đó, chỉ còn lại 3 người sống sót. Cả 3 đều bị thương rất nặng. Sau một thời gian bị giam giữ hỏi cung tại Nhà Tù Hỏa Lò, Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1961, ba Chiến sĩ VNCH bị đưa ra Tòa Án Quân Sự CSBV. Bản án như sau:
–Ðinh Như Khoa, Biệt Kích Dù, 15 năm tù
–Phan Thanh Vân, Trưởng Phi cơ, 7 năm tù
–Phạm Văn Ðăng, Cơ Khí viên, 3 năm tù.
PT Vân bị tù khổ sai ở Trại Bất Bạt, Ba Vì, Sơn Tây, rồi bị đưa lên giam giữ tại Trại E ở Phố Lu, Lào Cai. Năm 1971, PT Vân được CSBV phóng thích sau 10 năm tù giam và quản thúc. Nhờ sự bảo lãnh của bà chị ruột, qua Hồng Thập Tự Pháp, anh được sang Pháp để đoàn tụ với gia đình bà chị.
Ðây là bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân:

Chiều nay, sau khi làm xong cái giường đôi, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản lý Hợp tác xã Mộc Ðồng Tiến ở thị xã Ba Vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên văn phòng, y nói:
–Anh nghỉ làm đi, về lán thu xếp để ngày mai về Hà Nội.
Tôi thắc mắc:
–Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà Nội có chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
-Anh đừng hỏi, đó là lệnh trên, tôi không biết lý do. Anh cứ đi, có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu. Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán thu xếp hành lý mà trong lòng lo sợ: lại chuyện gì đây? Ðược đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã Mộc này đã gần 2 năm nay, ngày ngày, tháng tháng lòng tôi lúc nào cũng thấp thỏm lo âu với cái tội nặng là “Giặc Lái Mỹ Ngụy.” Năm 1961, sau khi lãnh án tù 7 năm, tôi từ Hỏa Lò Hà Nội đi qua trại này, trại kia, cuối cùng là Trại Tù E Phố Lu, Lào Cai, tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở phào nhẹ người khi được Ðảng và Nhà Nước “trả tự do,” đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, “ngày động, tối điểm”: ban ngày lao động: cưa xẻ, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước khi đi ngủ….
Tối hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì sẽ đến với mình đây, tại sao lại bị đưa về Hà Nội, tại sao... tại sao...??? Nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc lào. Ngoài lán các “đồng chí” đang quây quần bên bếp lửa canh nồi bánh chưng. Nếu không có cái lệnh ngày mai đi Hà Nội thì giờ này tôi cũng ngồi bên bếp với các bạn. Rồi đêm dài cũng qua, chưa 9 giờ sáng, một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe Jeep của Mỹ, đến đậu trong sân Hợp Tác Xã. Rồi tôi được gọi lên văn phòng. Cán bộ chờ tôi là cán bộ Toán. Ông nhẩn nha nói: “Hôm nay tôi đưa anh về Hà Nội, rồi đưa anh ra sân bay để anh đi Pháp đoàn tụ với gia đình. Ðảng và Nhà Nước đã rất khoan hồng với anh và đã chấp thuận lời xin của người chị của anh ở bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.” Nghe nói tôi gần tắt thở, mừng đến nỗi tim tôi đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tôi cố bình tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi lập lại, nào là “anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Ðảng và Nhà Nước,” nào là “anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ, sống ở nước ngoài anh vẫn có thể phục vụ Tổ Quốc, và để có ngày anh trở về nước phục vụ nhân dân, phục vụ Ðảng và Nhà nước, v.v. và v.v.” Ông Toán nói tiếp: “Ðây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để anh dùng đi đường ra nước ngoài, đây là giấy máy bay của hãng Hàng Không Pháp Air France đi từ Hà Nội đến Paris. Giấy máy bay này do người chị của anh mua. Thôi, chúng ta lên đường, anh còn có ý kiến, còn muốn phát biểu gì không?” Tôi lập bập: “Dạ... Dạ... Báo cáo cán bộ..., dạ... dạ... thưa... không!” Chân tôi bủn rủn, đi hết muốn vững. Ðâu có ngờ! Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại: “Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của Hợp Tác Xã tặng anh, cầm theo mà ăn đường.” Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường về Hà Nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật. Hai bên đường cây cối trơ trụi, bụi đường bốc lên sau xe, nhưng tôi thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp, sáng, tưng bừng như... Tết. Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ, tôi không để ý xe đã băng qua Hà Nội lúc nào và đang trên đường đến sân bay Bạch Mai. Tôi nhìn sân bay, ngoài bãi đậu có hai ba chiếc máy bay, một chiếc kiểu Illouchine 14 của Nga, loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ đang chuẩn bị cất cánh, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra. Tôi theo cán bộ Toán vào quầy hành khách trình giấy tờ, giấy thông hành, giấy máy bay... Làm xong thủ tục, cán bộ Toán nói:
“Thôi đến giờ rồi, anh ra máy bay đi, anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì tốt anh đã tiếp thu được mà cố gắng trở thành người tốt.” Tôi líu ríu: “Dạ... báo cáo cán bộ, dạ... tôi xin cám ơn!” Tôi hối hả theo sau độ mười người nữa ra chỗ máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ áo Mao, chắc họ là cán bộ đi công tác, còn tôi thì chả giống ai với bộ bà ba nâu, chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay ôm túi bánh chưng và gói quần áo. Tôi tìm chỗ ngồi trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da trắng đỏ, có lẽ là người Nga, mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để vào buồng lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại... ngày nào! Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của Hàng Không Nga chuyển bánh ra phi đạo, rồi cất cánh bay lên. Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy bay bay lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy ớn lạnh khi chợt nhớ đến... một chuyến bay xưa! Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa tiếp diễn qua tâm trí tôi như một cuốn phim: Tôi nhớ chiếc phi cơ C47 trắng ngần do tôi lái đêm ấy khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển rồi vào vùng trời miền Bắc. Cả 10 anh em chúng tôi đều thần kinh căng thẳng, không ai nói với ai một lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, lúc ấy khoảng hơn 1 giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay rung giật mạnh, không nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì, hai tay tôi ôm cứng tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi công phụ, rồi... tôi không còn biết gì nữa! Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng, hồn tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang... chết. Sau đó dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa với một thứ nước mằn mặn, máu, mặt tôi đầy máu, tôi lại mê man, tâm trí như có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không gian. Tôi cũng chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi nghe có tiếng người văng vẳng trong gió lao xao của đêm khuya. Tiếng kêu: “Chết tôi, nóng quá, nóng quá, chết... tôi!” Tiếng kêu thảm thiết của những người đang chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, một nửa người của tôi ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt nhìn: cách chỗ tôi “đứng” vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt, những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi nửa tỉnh nửa mê, lờ mờ biết rằng chiếc phi cơ C47 do tôi lái đã bị bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy! Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở choàng mắt ra lần hai, lúc này tôi đã nhìn được lờ mờ thấy khung cảnh đồng ruộng sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi nghe tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng trong gió đêm.
Tiếng quát tháo của đàn ông, đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe đốt sáng cả một góc trời, đầu óc tôi tê đi, cho đến lúc họ đến quát tháo bên tôi mà tôi vẫn “đứng im như một xác chết đứng.” Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy. Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi thấy không biết bao nhiêu người, đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống, gậy gộc, họ hầm hè như muốn nhai xương, uống máu, ăn thịt tôi, tôi đau đớn, tôi sức tàn, tôi sợ, tôi nhắm mắt lại, rồi lại lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát, tiếng chửi rủa: “Coi chừng, nó hãy còn sống, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của Mỹ Diệm!” Cuốn phim đến đây tự nhiên tắt, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế của hành khách, máy bay đang bay êm, tiếng máy đều đều... Trong máy bay lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy lạnh, lạnh ớn xương sống... với giấc chiêm bao vừa qua!
Với tay lấy cái mền đắp lên người tôi mới nhớ ra các giấy tờ mang theo, tôi lấy ra xem. Ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ Công An Hà Nội là giấy máy bay của Hàng Không Pháp Air France, trong đó ghi chặng đường bay: Hà Nội, Canton, Hồng Kông, Paris. Tôi nghĩ: tại sao ghé qua Quảng Ðông? (Canton) Ðó là đất Trung Cộng, nếu gặp lôi thôi, trở ngại biết làm sao? Mãi loay hoay với cả ngàn ý nghĩ lo âu, tôi không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật sáng, cho đến khi người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẩn bị đáp xuống. Phi trường Quảng Ðông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ từ vào bến đậu. Tôi xuống máy bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga. Tôi tìm ngay đến quầy của Air France. Sau khi xem giấy tờ, giấy máy bay của tôi, một người Tầu, bập bẹ tiếng Pháp, nói: “Chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection) giữa Canton và Hồng Kông, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền trước trong giấy của anh, chúng tôi sẽ cho anh đi Hong Kong bằng đường xe lửa, khi đến Hong Kong anh sẽ lấy máy bay đi Paris, anh theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa.” Ngồi trên xe theo người nhân viên Air France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để ghi nhận! Nhà ga xe lửa Quảng Ðông nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và hành lý. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen chúc đến quầy lấy vé rồi đưa tôi lên một toa giữa con tầu, may mắn tìm được một chỗ ngồi gần cửa sổ, anh ta đưa tay bắt tay tôi, anh chúc tôi may mắn: “Bonne chance.” Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh, một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914-18, cũng là khi tôi thấy đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách theo từ khi rời Hà Nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành, thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ quang cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của các hành khách nông thôn Tầu đủ loại, đang chen chúc nhau trong toa tàu chật hẹp.
Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm ranh giới giữa Quảng Ðông và Hồng Kông. Sau khi xe lửa ngừng hẳn, giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc đồng phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của Sở Di Trú (Immigration) lên toa xe để kiểm soát giấy tờ. Sau khi xem xét giấy thông hành tôi trình, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ giấy của tôi, xem kỹ rồi nói: “Với giấy thông hành này của CS Hà nội cấp cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua (transit) Hông Kông 24 tiếng đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hong Kong, nếu không chúng tôi sẽ bắt anh và trục xuất anh về Hà Nội, anh có hiểu rõ lời tôi nói không?” Tôi xanh mặt, lắp bắp trả lời: “Yes, yes Sir!”
Tay run run cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả, tôi nghĩ thầm: “Chết cha thằng nhỏ rồi, biết lo liệu làm sao đây?” Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hong Kong, hành khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền xi-măng sạch mát của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh hoạt của Thế Giới Tự Do! Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ chiều, tôi vội ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường Kaitak, phi trường quốc tế của HongKong “Thả cọp về rừng”, đường xá ở Hong Kong đâu có xa lạ gì với tôi, khi tôi còn lái cho Air Vietnam, nhiều lần tôi ghé qua ăn chơi ở đây. Tôi vừa đi vừa chạy, băng qua các phố xá đông nghịt người vui cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức gì, vừa mệt vừa lo sao cho mau đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp chuyến máy bay Air France đi Paris. Vào đến phi trường là lúc phố xá lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé Air France, trình giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất cánh lúc 20 giờ đi từ Hong Kong sang Paris theo như trên bảng khởi hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua. Người nhân viên Air France sau khi xem vé và giấy thông hành của tôi, nói: “Chúng tôi rất tiếc không thể cho anh đi trên chuyến bay này vì anh mang giấy tờ của CSBV, máy bay của chúng tôi phải làm transit ở Bangkok, tôi sợ nhà cầm quyền Thái sẽ làm khó dễ anh, họ làm khó cả hãng chúng tôi vì họ đã có lời yêu cầu không được cho người Bắc Việt Nam đi trên máy bay dù người đó chỉ ghé qua Thái Lan. Tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau, hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào thuận lợi cho anh thì anh hãy đi.” Cầm giấy tờ người nhân viên đưa trả, tôi thở hắt ra: “Hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi mò ra ghế ngồi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo sợ cứ nghĩ đến giờ sẽ bị trục xuất! Sợ mà không biết phải làm sao để có thể đến Paris. Chợt có người từ đằng sau đi tới vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp: “Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân, captain Air Vietnam? Ði đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?”
Tôi quay lại, một người đẹp trong bộ y phục nữ chiêu đãi viên Hàng Không tươi cười đưa tay cho tôi bắt, nàng nói: “Anh quên tôi rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!” Tôi ngỡ ngàng nhìn người thiếu phụ quen quen mà không nói được một lời, nàng huyên thuyên kể chuyện cũ. À! Thì ra nàng là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho Hàng Không Ðức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, từng được tôi mời ăn, mời uống, mời nhảy mỗi khi tôi gặp nàng ở những escale Hong Kong hay Tokyo. Tôi mừng quá là mừng. Tôi vội kể sơ cuộc đời tôi trong 10 năm vừa qua và cái rắc rối lớn tôi gặp ở đây. Nghe xong nàng nói: “Anh đừng lo, tôi sẽ thu xếp cho anh đi Paris ngay đêm nay. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh đi trên chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Frankfort lúc 10 giờ đêm nay, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp cho anh tránh khỏi sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Anh đi theo tôi làm thủ tục cho kịp.” Mừng như người sắp chết được sống lại, tôi líu ríu đi theo người đẹp mà lòng xôn xao thầm nghĩ: “Sao mình may mắn được hưởng cảnh ‘thánh nhân hậu đãi kẻ khù khờ’ như vầy nè.” Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng trên đoạn đường đời của một người “Từ Cõi Chết cộng sản tìm về Cõi Sống Tự Do” cuối cùng tôi đặt chân xuống Phi Trường Orly, Pháp, ngày 7 tháng 2 năm 1971.

Cò Trắng Phan Thanh Văn.

CT Hà Ðông:
Những chiếc phi cơ chở Biệt Kích ra Bắc được sơn trắng toát, không có quân hiệu, số hiệu, những phi công chuyên lái những phi cơ trắng ấy được gọi là Cò Trắng. Tôi gặp Phi công Phan Thanh Vân khoảng năm 2000, buổi gặp đầu tiên ở nhà ông Cựu Trung tá Không Quân Hoàng Song Liêm. Vì không quen biết anh PT Vân từ trước 1975 nên nay tuy tôi rất mến anh, rất muốn biết nhiều hơn về cuộc phiêu lưu thập tử vô nhất sinh của anh, tôi không có dịp làm thân với anh để được biết thêm. Tôi chỉ biết người phi công lái chiếc phi cơ ra Bắc đêm đó là Phi công Nguyễn Cao Kỳ. Ông này bận việc nên Phi công Phan Thanh Vân tự nguyện bay thay.
Sống sót sau tai nạn, bị mù một mắt, anh PT Vân kể ông Hồ Chí Minh ra lệnh các y sĩ phải bằng mọi giá cứu sống vài người trong số 10 anh em anh, để đưa ra tòa, tố cáo với thế giới là Miền Nam VN vi phạm Hiệp Ðịnh Genève, cho biệt kích ra đánh phá miền Bắc. Tôi được biết là các chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đều chối việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nói là không có việc gửi Biệt Kích ra Bắc – nên người Phi công Phan Thanh Vân khi đến Pháp không được Tòa Ðại Sứ VNCH nhận là chiến sĩ Quốc Gia, không nhận tất nhiên là không cho hưởng quyền lợi cũng không giúp gì cả. Nghe nói khi Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến Paris dự hội nghị, người phi công Phan Thanh Vân thế mạng cho ông năm xưa ở trong số người Việt đến đứng ngoài cửa Hotel đón mừng ông. Thấy bạn Phi công Phan Thanh Vân xưa, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ bắt tay, hỏi:
– Vân đấy à??? Nếu đêm xưa ấy, phi công Nguyễn Cao Kỳ bay chuyến bay ra Bắc như đã định, thì hôm nay tôi đâu có gì để phải xấu hổ. Than ôi... Số. Tại Số. Ai bảo ở đời người ta không có Số? Tôi bảo Có! Sau mấy năm ở Pháp, anh Phan Thanh Vân sang sống ở Hoa Kỳ. Anh qua đời ở Virginia. Tuổi anh bằng tuổi tôi: chúng tôi ra đời những năm 1932. 1933, 1934 Thế Kỷ Hai Mươi Trần Ai Khoai Củ!
PT Vân là Công Tử Sài Gòn, hào hoa và có số đào huê hơn người. Những năm 1960 tôi nghe nói anh được hưởng “ân huệ thơm như múi mít” của hai Nữ Ca Sĩ tài danh đương thời. Trong hai Nữ Ca Sĩ này có một người tôi biết, người anh em cùng vợ với tôi là anh Hoàng Hải Thủy thấy đẹp, quyến rũ quá chời. Nhưng năm 1960, thời gian Nàng trẻ, Nàng đẹp, anh Hoàng Hải Thủy nhà tôi đã vợ con dzầm dzề dzồi nên anh không thể làm cánh bướm si tình mon men theo tà áo ngát hương của Nàng. 
Tôi đăng bài viết của Phi Công Phan Thanh Vân để nói với quý vị chuyện Nguời Ta ở Ðời có Số. Quần áo, giày dzép, sú-cheng, si-líp còn có Số, huống chi Người Ta. Tôi cảm khái cách gì khi đọc đoạn Nàng Hotesse de l’Air Lufhansa Francoise nhẹ gót sen đi đến vỗ vai người Phi Công VNCH Tơi Tả vừa mới ra Tù đang ngồi rầu rĩ ở Phi Tràng Hong Kong. Mèn ơi... Nếu là tôi, tôi ôm hun Nàng thấm thít, Police Hong Kong có đánh 216789 cây dzùi cui lên lưng, lên đầu tôi, tôi cũng không buông Nàng ra. Nàm thao tôi buông Nàng ra được! Mèn ơi... Cảm khái cách gì!
Hoàng Hải Thủy  

Người Bán Liêm Sỉ - Tiểu Tử

Xin gọi ông ta là Ông X. Để tránh phiền phức. Thời buổi bây giờ, con người dễ bị chụp mũ bất cứ lúc nào và bởi bất cứ ai. Ở trên chụp xuống là nhà cầm quyền – hạng này đông lắm và rất... vững tay nghề vì đã từng hành nghề này cả mấy chục năm. Ở dưới chụp lên là kẻ tiểu nhơn – hạng này thường thấy xuất hiện khi có biến cố hay khi thấy chánh quyền đa nghi như Tào Tháo; hạng này hành động theo thời cơ nên tay nghề lắm khi còn vụng; họ không đông nhưng rất nguy hiểm bởi vì họ giống như mọi người nên khó mà nhận diện ! Ở ngang với mình mà chụp mũ mình là mấy đứa mà mình thường gọi là bạn hay chiến hữu hay đồng chí – hạng... mắc dịch này mới bắt tay ôm hôn mình thắm thiết đó, vậy mà hôm sau đã "trở cờ xé lẻ" bởi vì cái đít của họ đòi cái ghế và cái mặt của họ muốn được... bự bằng cái nia (để được thấy là … đại diện !) ; hạng này không cần tay nghề khéo nên cách chụp mũ thiếu... tế nhị ! Nói chung, hạng chụp mũ nào cũng chỉ chụp người có tên tuổi đàng hoàng chớ chẳng ai chụp mũ một kẻ vô danh. Cho nên, gọi nhân vật trong chuyện sau đây là ông X để ổng trở thành kẻ vô danh, khỏi bị chụp mũ ! (Xin lỗi ! Tôi hơi dài dòng ở đây tại vì tôi muốn mọi người đều thấy tôi "rõ như ban ngày", để đừng ai... chụp mũ tôi "có ý đồ này nọ". Đa tạ).

Bây giờ thì xin nói đến ông X.
Hồi thời trước – thời mà sau này "được" gọi là ngụy – ông X làm việc cho một hãng tư của ngoại quốc. Ông làm việc lâu năm và rất đắc lực nên ban giám đốc giao cho ông những chức vụ quan trọng với quyền hạn về tài chánh thật rộng rãi. Để thực hiện những chương trình xây dựng đồ sộ của hãng, ông thường xuyên giao dịch với chánh quyền. Nhờ vậy, ông "quen lớn" nhiều trong cả hai giới dân sự và quân sự.
Ở địa vị như của ông, con người dễ bị cám dỗ vì tư lợi. Chẳng có gì khó hết. Chỉ cần "nhắm mắt" một chút là nhà thầu sẽ biết cách đền ơn. Chỉ cần "biết phải quấy" một chút là vô "áp phe" riêng cho mình. Chỉ cần "bóp chẹt bắt bí" một chút là hất chân những đứa không theo bè cánh...
Ông X lại không thuộc hạng "biết làm ăn" như kể trên. Ông lớn lên trong một gia đình theo Khổng giáo, lấy "nhân nghĩa lễ trí tín" làm phương châm, luôn đề cao giá trị đạo đức của con người. Cho nên làm việc cho hãng gần hai mươi năm mà không thấy ông... "xơ múi" chút gì hết ! Bạn bè có đứa chê ông nhát. Ông cười: "Thà tao nhát mà tao giữ tròn liêm sỉ. Cái đó mới là cái khó. Người ta có thể chê tao như mày đã chê tao. Chớ không ai dám khi dễ tao hết. Cái phách của tao là ở chỗ đó !".
... 30 tháng tư 1975. Ông X đã không di tản. Nghĩ rằng mình làm việc cho hãng tư, lại là hãng của ngoại quốc, chắc "họ không làm gì đâu". Chẳng dè quân mũ tai bèo (Giải phóng miền Nam) và quân nón cối (bộ đội) vào Nam tiếp thu tuốt tuột. Hãng công hãng tư gì, lớn nhỏ gì cũng "đớp" hết ráo (Trước đó, họ có tuyên bố "không đụng tới cây kim sợi chỉ của dân", và sự thật, họ đã làm đúng như vậy, mới chết ! Bằng cớ là họ đã lấy hết, chỉ chừa có... cây kim sợi chỉ ! Cho nên, có thấy ai thưa gởi rằng bị cách mạng... cướp mất cây kim sợi chỉ đâu ? Vậy mà sao ai cũng nói họ "nói một đàng mà làm một nẻo" hết! Oan cho họ ! Có điều là với "cây kim sợi chỉ", người dân không biết... "làm khỉ gì ăn". Chỉ còn có nước may cái miệng lại để khỏi phải ăn, khỏi phải nói !).
Hãng của ông X bị quân mũ tai bèo mang bí số K7 tiếp thu. May cho ổng: người dẫn đầu toán tiếp thu là người chú bà con đi khu hồi kháng chiến 1945. Nhờ ông này can thiệp nên ông X không bị đi cải tạo, nhưng bị đổi đi "hạ tầng công tác" ở một kho hóa chất (Sự che chở người thân như vậy rất hiếm thấy trong chế độ. Và có lẽ vì vậy mà chưa đầy sáu tháng sau, ông cán bộ đó bị cho "về vườn" mặc dầu chưa tới hạn tuổi !).
Bấy giờ, ông X ăn lương 80 đồng. Trong khi người tài xế cũ của ông lảnh 90 đồng ! Ông được phát lương mỗi tháng hai kỳ. Mỗi kỳ là 40 đồng nhưng bị giữ lại 2 đồng để cho vào sổ tiết kiệm (Nhà Nước lo cho dân chí tình như vậy mà vẫn có người không bằng lòng. Lạ thật !).
Bấy giờ, vì tất cả ngân hàng đều bị tịch thu, nên tiền của mà ông X để trong ngân hàng của ổng kể như đã... cúng cô hồn ! Ông X trắng tay và... trắng mắt.
Bấy giờ, vợ con ông X rã ra đi làm trong mấy tổ hợp. Hai đứa nhỏ nhứt ở nhà dán bao giấy bỏ mối cho bạn hàng ngoài chợ gói đồ. Ông X bán lần xe cộ, bàn ghế tủ...
Nhiều khi ông thầm nghĩ: "Mình đã tự hào giữ tròn liêm sỉ từ mấy mươi năm. Bây giờ... đổi lấy cái ăn cũng không được. Phải chi hồi đó mình nhắm mắt làm bậy, mánh mung chụp giựt đầy túi rồi bay ra ngoại quốc ở, thì bây giờ mình đâu có ngồi đây nhìn cái khổ cực của vợ con ! Riết rồi không biết là mình khôn hay mình dại nữa".
Hôm nay là ngày ông đi bán chiếc xe đạp của ông. Ông đã tính kỹ: đạp xe ra chỗ thằng nhỏ sửa xe đạp ở góc đường xin nó cho đứng nhờ để bán; ở đó người qua lại cũng đông và người ghé vào bơm bánh hay sửa xe cũng thường; thế nào cũng có người hỏi mua. Sau khi lau chùi sạch sẽ chiếc xe, ông lấy một miếng bìa cứng viết lên đó "Bán xe đạp" rồi khoét lỗ xỏ sẵn dây để mang ra cột tại chỗ. Vừa làm ông vừa nghĩ đến thân phận của mình, đến cái liêm sỉ mà ông đã đeo đẳng từ bao nhiêu năm. Ông cười chua chát: "Cái liêm sỉ không giá trị bằng chiếc xe đạp !". Bỗng ông nẩy ra một ý, vừa hài hước vừa táo bạo: "Tại sao mình không treo bảng bán cái liêm sỉ ? Cười chơi, sợ gì ?". Vậy là ông lấy một miếng cạc-tông, nắn nót viết lên đó hàng chữ "Bán cái liêm sỉ. Bảo đảm 20 năm chưa sứt mẻ". Khoét lỗ xỏ dây xong, ông cho hết vào túi xách, đạp xe ra ngõ.
Thằng nhỏ sửa xe tuổi độ mười hai mười ba. Ốm nhom, đen thui, cười hở lợi. Sáng nào nó cũng kéo chiếc xe hai bánh chở hai thùng gỗ nhỏ và mớ đồ nghề, ra... hành nghề cạnh trụ đèn ở góc đường. Sợ người ta không biết hay sao mà thấy nó có treo trên trụ đèn tấm bảng trắng sơn chữ đỏ "Tại đây sửa xe đạp đủ loại".
Khi ông X xin đứng nhờ, nó vui vẻ nhận lời ngay:
- Dạ được ! Dạ được ! Ông Hai cứ dựng xe cạnh cột đèn đó, không sao hết. Chỗ này là chỗ "bá tánh" chớ phải của riêng cháu đâu mà ông Hai xin phép !
Rồi nó lấy cái thùng gỗ úp xuống, mời:
- Ông Hai ngồi. Cháu đang lỡ tay !
Nó làm như nếu nó không lỡ tay thì nó có bổn phận phải ngồi... tiếp chuyện ông X vậy ! Ông thấy có cảm tình ngay với thằng nhỏ. Ông cảm ơn rồi lấy hai miếng cạc-tông ra, treo một tấm lên sườn xe đạp, tấm thứ hai đeo lên cổ của mình một cách thích thú !
Ông ngồi xuống thùng gỗ phía sau lưng thằng nhỏ, đốt thuốc hút, ung dung. Thằng nhỏ đang ráp sợi dây sên vào chiếc xe đạp dựng ngược. Nó vừa làm vừa nói chuyện với ông X, mắt vẫn nhìn chăm chú vào công việc.
- Ông Hai bán xe rồi lấy gì mà đi ?
- Thì... tôi đi chung xe với bà nhà tôi.
- Ông đèo bà hay bà đèo ông vậy ?
Ông X bật cười:
- Dĩ nhiên là tôi đèo bả chớ !
- Ý ! Bây giờ đổi đời rồi. Mấy bà chở chồng chạy bon bon thiếu gì, ông Hai.
Nói xong, nó cười hắc hắc. Ngừng một lúc, chừng như đang ngẫm nghĩ gì đó. Rồi nó nói tiếp, giọng ngang ngang:
- Bây giờ sao nhiều người bán đồ bán đạc trong nhà quá. Ở xóm của cháu, thấy có người cạy gạch bông nền nhà lên bán đặng ăn, ông Hai à !
Hình ảnh đó làm ông xúc động. Ông không biết phải nói gì. Sự bần cùng của người dân trong chế độ được gọi là ưu việt này, đã vượt quá xa tầm tưởng tượng của con người... thì còn lời gì để nói ? Im lặng, ông hít nhiều hơi thuốc dài...
Thấy sao "người đối thoại" của nó làm thinh, thằng nhỏ quay đầu nhìn lại. Bây giờ nó mới thấy tấm bảng ông đeo trước ngực. Nó ngạc nhiên:
- Ủa ! Ông còn bán cái giống gì nữa vậy ?
- Thì... cháu đọc coi.
- Cái... "liêm" ... Cái "liêm sỉ" là cái gì vậy, ông Hai ?
- Ờ... Cái liêm sỉ là... (Ông ngập ngừng tìm lời để giải nghĩa) Là ... Là cái mà thiên hạ ai cũng quí trọng hết. Người ta coi nó có giá trị như... có giá trị như...
- Như hột xoàn hả ông Hai ?
- Ờ ! Đại loại như vậy. Thiên hạ cho rằng người nào có cái liêm sỉ cũng thấy sáng ngời không kém.
Nổi tánh tò mò, thằng nhỏ chùi vội hai tay vào một miếng giẻ cũng dơ như tay của nó, rồi xoay hẳn người lại, hâm hở:
- Ông Hai cho cháu coi một chút được không ? Từ cha sanh mẹ đẻ cháu chưa nghe nói tới cái liêm sỉ bao giờ, chớ đừng nói thấy.
- À cái này không có coi được. Lớn lên rồi cháu sẽ biết.
Thằng nhỏ tiu nghỉu, quay trở về công việc mà nghĩ: "Chắc là đồ xịn lắm nên ổng sợ !"
Có hai thanh niên dừng lại bơm bánh xe. Cả hai đều đọc bảng treo trước ngực ông X. Một anh hỏi anh kia:
- Cái liêm sỉ là cái gì vậy mậy ?
Thằng nhỏ nói hớt, vẻ sành sỏi:
- Là đồ nữ trang loại xịn. Mắc lắm đó !
Ông X mỉm cười, chua chát nghĩ: "Chế độ đâu có dạy con người phải có liêm sỉ. Bây giờ, chỉ thấy học đấu tranh, học hận thù, học giết chóc... chớ đâu thấy học làm người có đạo đức, trọng lễ nghĩa để mà biết liêm sỉ là gì ? ''
Một anh bộ đội, nón cối nghiêng nghiêng, tấp Honda vào hỏi mua "săm" xe đạp. Thằng nhỏ nói: "Sửa xe chớ không có bán đồ phụ tùng". Chờ cho anh bộ đội đi khuất, nó quay lại cười cười nói với ông X:
- Ruột xe thì nói ruột xe. Mấy chả nói "săm". Hồi đầu cháu đâu có biết. Cháu chỉ qua bà xẩm bán nước sâm ở bên kia đường. Thấy cười quá ! Họ nói tiếng gì đâu không, hà !
Một thanh niên chở một ông già, ngừng lại nhờ thằng nhỏ siết lại cái đầu bàn đạp. Sau khi nhìn ông X, anh thanh niên hỏi nhỏ ông già:
- Liêm sỉ là cái gì hả ông nội ?
Ông già tằng hắng rồi nói, giọng nghiêm trang:
- Là cái mà nó bắt con người ta phải cẩn thận trong suy tư trong hành động. Nó không cho con người ta làm bậy làm quấy, làm sai đạo lý. Nó bắt con người ta phải biết xấu hổ khi có ý xâm phạm thuần phong mỹ tục. Quí lắm, con thấy không ? Vậy mà thời buổi bây giờ có mấy ai biết nó là gì...
Trả tiền xong, người cháu đợi người ông ngồi đàng hoàng vững chãi trên pọt-ba-ga rồi mới đạp đi. Ông già quay đầu nhìn lại ông X, giống như nhìn một món đồ cổ !
Mặt trời đã lên cao. Cây me già cạnh đó đổ bóng mát rượi xuống chỗ "hành nghề" của thằng nhỏ. Gió thổi hiu hiu. Lá me lăn tăn rụng...
Một ông già râu tóc bạc phơ đạp xe lọc cọc ghé vô nhờ sửa cái thắng. Sau khi... "kiểm tra" lại bộ phận, thằng nhỏ gãi gãi đầu mặc dù tay nó dơ hầy:
- Cha... Vụ này hơi lâu à ông Hai. Cũng năm mười phút à !
- Không sao. Tao đợi. Tao thiếu gì thì giờ.
Nó vội vàng lật úp cái thùng gỗ còn lại, đặt gần chỗ ông X:
- Ông ngồi đây. Có ông Hai này ngồi bán xe, từ sáng giờ không thấy ai hỏi hết. Chắc cũng buồn !
Đó là cách nó giới thiệu để hai người dễ dàng bắt chuyện với nhau, nếu muốn.
Ông già ngồi xuống, gật đầu chào ông X, rồi móc bọc thuốc rê, mời:
- Ông vấn một điếu chơi.
- Cám ơn. Tôi có đem theo thuốc vấn sẵn ở nhà.
Ông X lấy trong túi ra hộp thiếc giẹp màu vàng (loại đựng thuốc điếu 555 ngày xưa) móp méo trầy trụa, mở ra mời lại:
- Ông hút thử thứ này coi.
Ông già cất bọc thuốc vào túi lấy một điếu của ông X để lên môi, đốt. Ổng hít mấy hơi thật dài rồi gật gù:
- Ùm... Một phần Lạng Sơn hai phần Gò Vấp.
- Đúng ! Ông rành quá !
- Một đời hút thuốc mà không rành sao được, ông bạn.
Hai người im lặng thở những hơi khói dài. Giờ đó, đường cũng vắng, chỉ nghe tiếng lách cách sửa xe của thằng nhỏ. Một lúc lâu sau, bỗng ông già tằng hắng rồi nheo mắt nhìn thẳng ông X, giọng ôn tồn:
- Ông bạn à. Tôi nghĩ nếu ông bạn còn chút liêm sỉ thì nên dẹp tấm bảng bán liêm sỉ của ông đi. Chỉ có phường vô liêm sỉ mới khoe khoang khoác lác rằng ta là thế này, ta là thế nọ, ta hơn thiên hạ về đủ mọi mặt vv…. Sự thật, họ không có gì hết. Bọn vô liêm sỉ đó đã chà đạp mọi giá trị tinh thần của con người, đã chối bỏ truyền thống đạo đức của ông cha để lại từ không biết mấy ngàn năm.
Ông X im lặng gật gù nghe. Ông già ngừng một chút để hít mấy hơi thuốc. Rồi tiếp:
- Ông bạn à. Tôi tin rằng ông bạn là người có liêm sỉ. Trực giác cho tôi thấy như vậy. Bây giờ, đem rao bán cái liêm sỉ, ông bạn có thấy đó là hành động thiếu suy nghĩ không? Nói khùng mà nghe, giả dụ ông bạn có bán được cái liêm sỉ, ông bạn sẽ "trắng tay". Không còn liêm sỉ nữa thì ông bạn sẽ thành cái gì ?
Ông già ngừng ở đó, nhìn ông X một chút rồi nói gằn từng tiếng:
- Ông bạn sẽ là thằng-vô-liêm-sỉ !
Đến đây, thằng nhỏ đã sửa xong cái thắng. Ông già đứng lên chào ông X, trả tiền rồi đạp xe đi thẳng.
Hút tàn điếu thuốc, ông X thở dài, đứng lên tháo hai miếng cạc-tông cho vào túi xách. Thằng nhỏ ngạc nhiên:
- Ủa ! Bộ ông Hai về hả ?
- Ừ !
- Sao về sớm vậy ?
- Ừ ! Về sớm.
Ông X nói bằng một giọng trống rỗng. Thằng nhỏ ân cần dặn:
- Ông Hai cẩn thận nghe ! Coi chừng tụi nó giựt cái liêm sỉ à. Mấy thằng lưu manh nó giựt bóp của người ta hoài, hà !
Ông X làm thinh đạp xe đi, bỗng nghe như cái liêm sỉ của ông nó nặng như chì. Vậy mà bao nhiêu lâu nay, ngày ngày ông vẫn còng lưng cõng nó để đi tìm một chân trời, một lối thoát, một chút ánh sáng ở cuối con đường hầm … !
Tiểu Tử

CÁCH DÙNG DẤU HỎI - NGÃ - Bích Thủy

Bichthuy chỉ nhắc những cái cơ bản giúp dễ nhớ để viết chính tả tương đối ổn và hạn chế lỗi ở mức thấp nhất . 
1 . DÙNG TỪ LÁY THEO QUI ƯỚC : NGANG SẮC HỎI - HUYỀN NGÃ NẶNG . 
* NGANG - SẮC - HỎI  (dấu ngang và sắc đi với dấu hỏi)
Ví dụ:  Ngang + Hỏi 
 -  Dư dả, chăm chỉ, năn nỉ, thon thả, thoang thoảng, âm ỉ, trăn trở, trong trẻo, an ủi, xăm xỉa, vui vẻ, thơ thẩn, mơn mởn, lêu lổng, hư hỏng, căng thẳng, dai dẳng, xây xẩm, êm ả, chăm bẳm, xoay sở, san sẻ, ăn ở, xa xỉ, hăm hở, ngoe nguẩy, tanh tưởi, phe phẩy, đông đủ, thanh thản, chưng hửng, tiu nghỉu, sang sảng, nham nhở, gây gổ, yên ổn, cơ sở, chao đảo, sơ hở, tin tưởng, năng nổ, cưa cẩm, đưa đẩy, thăm thẳm, tưng tửng, xon xỏn, leo lẻo, ra rả, hỏi han, nở nang, nhỏ nhen, nhởn nhơ ngẩn ngơ, vẩn vơ, lẳng lơ, ngả nghiêng, chỉnh chu, mỏng manh, dửng dưng, cỏn con, lửng lơ, thảm thương , trả treo, nể nang, tả tơi, bỏ bê, mải mê, bảnh bao, chở che, hẩm hiu , phẳng phiu , khẳng khiu , rủi ro , mỉa mai , nghỉ ngơi , ngổn ngang , giỏi giang , trẻ trung, đảo điên , hiển nhiên , sửa sang , xỏ xiên , tỉ tê, dở dang, ngủ nghê, thở than, dẻo dai, lẻ loi, sản sinh, thảnh thơi . 
Ví dụ :  Sắc + Hỏi 
- Mát mẻ , sắc sảo , mắng mỏ , vất vả , hối hả , hớn hở , xối xả , bóng bẩy , nóng nảy , sắm sửa , hớt hải , lấp lửng , khúc khuỷu , tá lả , rác rưởi , trống trải , cứng cỏi , bắt bẻ , sáng sủa , sến sẩm , xấp xỉ , lém lỉnh , kháu khỉnh , cáu kỉnh , gắt gỏng , ngái ngủ , trắc trở , tráo trở , kém cỏi , khấp khểnh , thất thểu , khốn khổ , béo bở , thấp thỏm , thắc thỏm , ngất ngưởng , sấn sổ , tán tỉnh , ngúng nguẩy , nức nở , nhắc nhở , khốn khổ , tức tưởi , chúi nhủi , ngắn ngủi , chống chỏi , hốt hoảng , rắn rỏi , sắp sửa , gởi gắm , thổn thức , rửa ráy , khoảnh khắc , rải rác , rẻ rúng , sửng sốt , tử tế , cảnh cáo , hảo hán , phản phúc , lở loét , nhảy nhót , tỉa tót , tuổi tác , quả quyết , nhảm nhí , sản xuất , khủng khiếp , lảnh lót , bảo bối , thưởng thức , thẳng thắn , khỏe khoắn , thảng thốt , chải chuốt , nhỏ nhắn , lả lướt , rả rích , phảng phất , bổ báng , hiển hách .
* HUYỀN - NẶNG - NGÃ (dấu huyền và nặng đi với dấu ngã)
Ví dụ:  Nặng + Ngã 
-  Gọn ghẽ , vạm vỡ , ngạo nghễ , lặng lẽ , lạnh lẽo , bạc bẽo , sặc sỡ , rực rỡ , rũ rượi , gạt gẫm , dựa dẫm , mạnh mẽ , nhẹ nhõm , bập bõm , chập chững , chặt chẽ , rộn rã , vội vã , nghiệt ngã , ruộng rẫy , sạch sẽ , tục tĩu , hậu hĩ , dạy dỗ , gặp gỡ , bụ bẫm , dụ dỗ , giặc giã , giặt giũ , giận dỗi , khập khiễng , đục đẽo , ngặt nghẽo , ngộ nghĩnh , lạ lẫm , rạng rỡ , rệu rã , rộng rãi , dạn dĩ , nhục nhã , nhẫn nhịn , lễ lộc , lỗi lạc , chễm chệ , lưỡng lự , nhã nhặn , mẫu mực , nhão nhoẹt , cãi cọ , dữ dội , kẽo kẹt , chững chạc , dõng dạc , nhễ nhại , rõ rệt , lẫn lộn , ưỡn ẹo , rũ rượi , hãm hại , lũ lụt , lãng mạn .
Ví dụ :  Huyền + Ngã 
- Gần gũi , liều lĩnh , lầm lỗi , gìn giữ , buồn bã , tầm tã , suồng sã , rầu rĩ , thờ thẫn , hờ hững , phè phỡn , sàm sỡ , xoàng xĩnh , bừa bãi , lừng lẫy , nghề ngỗng , mò mẫm , ruồng rẫy , thừa thãi , lầm lũi , đằng đẵng , lờ lững , nhàn nhã , bẽ bàng , vẫy vùng , nõn nà , vững vàng , đẫy đà , phũ phàng , bão bùng , sỗ sàng , vỗ về , rõ ràng , vẽ vời , sững sờ , ngỡ ngàng , hỗn hào , hãi hùng , sẵn sàng , kỹ càng , não nề , khẽ khàng , mỡ màng 
* TỪ LÁY THƯỜNG ĐI MỘT CẶP DẤU HỎI HOẶC NGÃ. 
Ví dụ: 
-  Lã chã , bỗ bã , bẽn lẽn , bỡ ngỡ , mỹ mãn , dễ dãi , cũn cỡn , lững thững , ngẫm nghĩ , lỗ lã , xiễng niễng , lẽo đẽo , nhõng nhẽo , mũm mĩm , lẫy bẫy , mẫu mã , vĩnh viễn , nhễu nhão .
-  Thỏ thẻ , đỏng đảnh , lẻ tẻ , của cải , lẩm bẩm , lẩm cẩm , lảm nhảm , hể hả , kể lể , nhỏng nhảnh , lủng củng , thỉnh thoảng , lảo đảo , tỉ mỉ , thủ thỉ , lảng vảng , rủng rỉnh , loảng xoảng , hổn hển , lủng lẳng , lỏng lẻo , lải nhải , tủm tỉm , bủn rủn , xởi lởi , tẩn mẩn , lẩn quẩn , thỏn mỏn , chỏn lỏn , giả lả , bải hoải , bổi hổi , ảo ảnh , lẩn thẩn , lởm chởm , rỉ rả , thủng thẳng 
2 . TỪ NGUYÊN ÂM : DẤU HỎI 
Ví dụ :  
Ủa , ổi , ổng , ẩu , ủng , ỷ , ổn , ửng , ổ , ủy , ỏn ẻn , ong ỏng , im ỉm , âm ỉ , ấp ủ , ảo ảnh , ăn ở , êm ả , ẩn ý , an ủi , ẩm ướt , ủ ê , uể oải , ít ỏi , óng ả , ủn ỉn , ỏng ẹo , oan uổng , ăng ẳng , ư ử , oẳn tù tì , ẻo lả , yểu điệu , ỉu xìu , ảm đạm , uyển chuyển , quan ải , oản xôi , yểm trợ ( trừ : ễnh , ưỡn , ẵm , ỡm )
3. TỪ HÁN VIỆT BẮT ĐẦU LÀ  M, N, NH, L, V, D, NG THÌ DẤU NGÃ, CÁC CHỮ KHÁC DẤU HỎI . 
Ghi nhớ 7 chữ này bằng câu “ Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã “ 
Ví dụ :
-  M:  Mỹ nhân , Mẫu giáo , Mã đáo , Mãn nguyện , Mãng xà , Mãnh lực , Mẫn cán , Miễn nhiệm , Mão mũ 
-  N:  Não bộ , Nữ nhi , Noãn hoa , Nỗ lực , Nã ( truy nã ) 
-  NH:  Nhẫn tâm , Nhãn tiền, Nhiễu loạn, Nhũ mẫu, Nhã nhạc, Nhã nhặn, Nhuyễn thể, Nhĩ (mộc nhĩ ) , Nhưỡng (thổ nhưỡng)
-  L:  Lão gia , Lễ nghi , Lĩnh hội , Lỗi lạc , Liễu tơ , Lữ khách , Lãng tử , Lưỡng tính , Lãnh địa , Luỹ thành , Lãn ông Hải Thượng , Lãm nguyệt , Lẫm liệt 
-  V :  Vãn hồi , Viễn xứ , Vĩ đại , Võ sư , Vũ trang , Vĩnh hằng , Vững chải 
-  D :  Diễm phúc , Dũng khí , Dưỡng dục , Dĩ hoà vi quý , Dõng dạc , Diễu hành , Dã ngoại , Dã tâm , Diễn thuyết 
-  NG :  Nghĩa hiệp , Ngũ cốc , Ngữ hệ , Ngẫu nhiên , Nghiễm nhiên , Ngã ( bản ngã )
4 . HỌ VÀ TRẠNG TỪ : DẤU NGà
-  Nguyễn , Võ , Vũ , Đỗ , Doãn , Lữ , Lã , Liễu , Nhữ 
-  Cũng , vẫn , sẽ , mãi , đã , những , hỡi , hễ , lẽ ra , mỗi , nữa , dẫu ...
5 . DÙNG DẤU BẰNG CÁCH SUY LUẬN THEO NHÓM NGHĨA . 
Ví dụ một số từ phổ biến : 
NỔI - NỖI : 
-  Cái nào chỉ sự trồi lên bên trên , hơn cái bình thường thì dùng dấu hỏi  ( nổi trội , nổi bật , nổi danh , nổi tiếng , nổi cục , nổi mụn , nổi sóng , nổi nóng , chợ nổi , nổi dậy , nổi như cồn , chơi nổi , bày đặt làm nổi , trôi nổi , cá chết nổi đầy sông , hết nói nổi , chịu hết nổi , gánh không nổi , nổi máu anh hùng , nổi điên , nổi hứng , nổi giận , nổi xung thiên , nổi bọt ..)
-  Cái nào liên quan đến sự biểu cảm thì dùng dấu ngã ( nông nỗi , khổ nỗi , đến nỗi nào , làm gì nên nỗi , nỗi lòng , nỗi niềm , nỗi ước ao , nỗi nhục  , nỗi oan , nỗi oán hận , nỗi bâng khuâng , nỗi nhớ ...) 
NGHỈ - NGHĨ :
-  Cái nào liên quan đến sự ngừng lại một hoạt động thì dùng dấu hỏi  ( nghỉ ngơi , nghiêm nghỉ , nhà nghỉ , nghỉ việc , nghỉ hè , nghỉ lễ , an nghỉ , không ngừng nghỉ , nghỉ mệt , nghỉ dưỡng , nghỉ xả hơi , nghỉ mát , nghỉ thở , nghỉ tay nghỉ chân ...) 
-  Cái nào liên quan đến cảm xúc hoặc tư duy thì dùng dấu ngã  ( nghĩ ngợi , suy nghĩ , ngẫm nghĩ , nghĩ cách , thầm nghĩ , nghĩ chưa thông ...) 
MẢNH - MÃNH :
-  Cái nào gợi hình dạng bóng dáng thì dùng dấu hỏi  ( mảnh trăng , mảnh ruộng , mảnh vườn , mảnh đất , mảnh vỡ , mảnh thịt , mảnh sành , mảnh khảnh , mảnh mai , mỏng mảnh , mảnh tình , mảnh áo , mảnh vá , mảnh tim ....) 
-  Cái nào liên quan đến tính chất thì dùng dấu ngã  ( dũng mãnh , mãnh liệt , ranh mãnh , ma mãnh , mãnh hổ , mãnh thú , mãnh lực ..) 
KỶ - KỸ :
- Cái nào liên quan đến bản thân mình , vì mình , của mình ..thì dùng dấu hỏi  ( kỷ vật , kỷ niệm , kỷ luật , kỷ yếu , ích kỷ , kỷ lục , tri kỷ , thế kỷ )
- Cái nào thuộc về kỹ thuật , trình độ , thao tác .. thì dùng dấu ngã  ( Kỹ nghệ , kỹ năng , kỹ xảo , kỹ thuật , kỹ nữ , kỹ lưỡng , kỹ càng , cũ kỹ , kỹ tính , trường kỹ , làm rất kỹ , nghĩ rất kỹ ) 
CHÚ Ý : 
-  Đây là những qui ước cơ bản nhưng không phải là tuyệt đối , vẫn có một số từ ngoại lệ không theo qui ước trên .
- Trong tiếng Việt , lượng dấu hỏi chiếm khá lớn so với dấu ngã , nếu phân vân thì ưu tiên cho dấu hỏi trước , không thì hỏi gu gồ cho chắc ăn 😄😄