Thursday, June 20, 2019
Thị trưởng Trí Tạ họp khẩn vụ loan truyền “Westminster nay chính thức là Ho Chi Minh City” June 19, 2019
Nguyễn Việt Linh/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Thị Trưởng
Westminster, Trí Tạ, đã triệu tập phiên họp khẩn lúc 1 giờ trưa Thứ Tư,
19 Tháng Sáu, 2019, để Hội Đồng Thành Phố tìm phương thức đối phó với
các thông tin gây chia rẽ và các lời bình phẩm phương hại cộng đồng, và
các tin tức thất thiệt “do các nghị viên loan truyền trên trang Facebook
cá nhân” về thành phố Westminster.Thứ nhất, không có việc “Westminster nay chính thức là Thành Phố Hồ Chí Minh,” như Nghị Viên Tài Đỗ đăng bằng tiếng Anh nguyên văn “Westminster is officially now Ho Chi Minh City” trên trang Facebook cá nhân của ông Tài Đỗ sau phiên họp bỏ phiếu 3-2, thông qua mục 8.3 của nghị trình vào tối Thứ Tư tuần trước.
Thứ hai, Hội Đồng Thành Phố phản đối Nghị Viên Tài Đỗ đã mạ lỵ khi dùng tên của của ba nghị viên gốc Việt trong một nội dung khác, trên trang Facebook của ông này: “Westminster nay chính thức là Thành Phố Hồ Chí Minh do Trí Tạ, Kimberly Hồ và Chí Nguyễn mang lại,” (nguyên văn tiếng Anh là “Westminster is officially now Ho Chi Minh City brought to you by Tri Ta, Kimberly Ho, and Chi Nguyen”).
Trước đó Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ cũng đưa ra một yêu cầu bỏ phiếu, liên quan lý do buổi họp khẩn cấp, nhưng đã bị hội đồng bác bỏ.
Trước đó, khoảng hai chục người lên phát biểu ủng hộ Nghị Viên Tài Đỗ và viện cớ là những gì đăng trên Facebook của ông Tài mang tính châm biếm, không có ý nghĩa chia rẽ hay ác ý gây phương hại, như ba nghị viên gốc Việt cáo buộc. Họ nói rằng cuộc bỏ phiếu thông qua mục 8.3 là lấy đi quyền tự do phát biểu và độc tài.
Phía ủng hộ Thị Trưởng Trí Tạ, Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ và Nghị Viên Charlie Chí Nguyễn chỉ có một số ít người Việt hiện diện phát biểu. Lý do, theo họ, là vì người Việt đa số đang trong giờ phải đi làm nên không tham dự đông được. Tuy nhiên, cũng qua lời phát biểu của những người này, thì chỉ có người Việt chạy trốn cộng sản, mới hiểu được rằng chỉ nói đến cái tên “Hồ Chí Minh” cũng quá đủ, để gợi lại quá khứ kinh hoàng của người vượt biên, vượt biển tị nạn, tìm tự do.
Trở lại phiên họp hôm Thứ Tư, 12 Tháng Sáu vừa qua, Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ và Thị Trưởng Trí Tạ đề nghị mục 8.3 trong nghị trình phiên họp rằng thị trưởng và hội đồng thành phố muốn chính thức hóa quy trình chọn xem những mục nào do các nghị viên đề nghị, được đưa vào chương trình nghị sự của hội đồng thành phố. Kết quả mục này được thông qua với tỷ số 3-2 (Thị Trưởng Trí Tạ, Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ và Nghị Viên Charlie Chí Nguyễn bỏ phiếu thuận; Nghị Viên Tài Đỗ và Nghị Viên Sergio Contreras bỏ phiếu chống).
Trước đây, theo hồ sơ, thành phố không có một chính sách chính thức về vấn đề này, nhưng thay vào đó, chỉ dựa vào các thông lệ trong quá khứ và nếu được bỏ phiếu đa số, đề nghị sẽ vào nghị trình. Riêng vai trò thị trưởng, không cần phải có nghị viên bảo trợ.
Chính thức hóa quy trình này sẽ đem lại sự minh bạch hơn cho công chúng về những mục nào được đưa vào nghị trình và sẽ đơn giản hóa thêm cho quá quy trình nghị sự.
Cũng theo hồ sơ thành phố, chính sách mới là đề nghị đưa vào nghị trình phải được phát biểu trong buổi họp của hội đồng.
-Bất kỳ thành viên nào của hội đồng, ngoại trừ thị trưởng, muốn để một mục trong chương trình nghị sự phải phát biểu trong phần “Nhận Xét của Thành viên Hội đồng” (Council Member Comments), chứ không được nói với nhân viên thành phố.
-Trong cuộc họp, người yêu cầu phải nêu chủ đề với một lý do rất ngắn gọn tại sao cần yêu cầu điều này trong chương trình nghị sự. Hội đồng không được thảo luận để đề nghị được bảo đảm không vi phạm luật Brown Act trong nghị trường.
-Một yêu cầu sẽ được thực hiện để tỏ ý muốn hội đồng bỏ phiếu thuận hoặc chống.
-Nếu đa số hội đồng chấp thuận yêu cầu, nhân viên sẽ làm việc với nghị viên yêu cầu để xác định ngày nào tiếp theo sẵn sàng để lên chương trình họp.
-Nếu yêu cầu không được chấp thuận đưa vào chương trình nghị sự, nghĩa là đa số thấy không thích hợp và sẽ không được đưa vào chương trình nghị sự. Thành viên hội đồng không thể yêu cầu lại mục này, tối thiểu sáu tháng sau, trừ khi có sự khẩn cấp quy định bởi luật pháp, vụ kiện hoặc chính sách mới.
-Thị trưởng với tư cách là thị trưởng có thể đưa một mục vào chương trình nghị sự qua vị tổng quản trị thành phố hoặc một diễn đàn công cộng mà không cần sự chấp thuận của đa số dân cử trong hội đồng. (Nguyễn Việt Linh) Liên lạc tác giả: linhnguyen@nguoi-viet.com
Xin ghi lại một chuyện cũ, để bày tỏ lòng thành kính tiếc thương Anh Ngô Đình Cường
Niên khóa 1972-1973, tôi được nhà trường phân công làm “giáo sư hướng
dẫn” lớp 12B3, tôi rất vui khi nhận nhiệm vụ này, trong công việc chung,
tôi là thầy giáo gần gũi nhất với lớp, trong tình riêng, lớp này có
nhiều học sinh là con em của bạn tôi, các em lại rất ngoan, thông minh
và tài năng. Vì cái thông minh và tài năng đó mà tôi và anh Cường phải
lao đao.
Gần cuối học kỳ I, các em xin làm đặc san cho lớp, tôi tin tưởng các em nên chỉ trao đổi qua loa. Tôi hỏi:
- Các em định lấy tên đặc san là gì? Nội dung tập trung chủ đề nào
- Dạ Phiêu! Chủ đề chỉ là chuyện học hành, vui chơi và bày tỏ một vài ý riêng.
Tôi hơi ngạc nhiên và thực tình chưa hiểu tên đặc san mà các em chọn. Các em hứa lúc nào xong bản thảo sẽ gởi tôi xem.
Đọc bản thảo tôi hơi ngạc nhiên, các em đã có một độ chín tôi không ngờ, cả nội dung, cả hình thức và văn phong của các em. Tôi thích! Ví như trong lời nói đầu của đặc san các em viết:
Phi bạt
Bạt của Phiêu lẽ ra phải là phi bạt vì trong Phiêu ta tìm thấy PHI và YÊU. Tình thương khi đạt tới cõi vô thường thì còn gì để nói?
Yêu từ đó đã bát ngát tình người. Sau lộ trình dài bảy lần quay của đất, giữa những giọng nói quen thuộc nhau sau vuông cửa, giữa những khuôn mặt không quen mà biết rõ trong bờ tường cao, khép lại đôi cánh rộng, bụi trúc văn phòng, lề đường Nguyễn Hoàng nhả nhòa khói thuốc nhìn ai, cụm sầu chiều hực nở vàng thông vào hành lang phòng 6. Miếng tôn sứt , gió đập khan đài sau phòng 27, sân bóng rổ, mỗi sáng chào cờ dấu mặt cười khúc khích …Tất cả chẳng là những sợi tơ vướng vít chân ta trước khi bước vào cuộc sống hay sao con đường mới mà áo trắng sẽ được thay bằng áo màu, khoác mặt nạ nghiêm trang trên một bục cao nào đó.
Thế đấy, đặc san của học trò mà có ý tứ, văn phong như vậy, điều này còn thể hiện trong các bài khác của đặc san. Tuy nhiên vẫn có những bài mang tính đùa cợt con nít, có bài mang tính suy tư bay bổng của tuổi trẻ, những nội dung không bằng phẳng này, tôi có trao đổi với các thầy cô có liên quan.
Ba, bốn ngày sau khi phát hành đặc san, cảnh sát đến trường làm việc với Hiệu Trưởng, hôm sau đến, mời tôi đến phòng Hiệu trưởng làm việc, việc mà họ làm là trịch thu tờ đặc san và đề nghị nhà trường đuổi học vĩnh viễn những em trong ban biên tập, với lý do trong một bài viết đã có những lời ngỗ nghịch xúc phạm đến thầy cô giáo… Tôi hỏi “Còn gì nữa không các anh ”, họ lắc đầu.
Tôi lấy cớ bận dạy, hẹn sáng hôm sau trao đổi tiếp, trước khi đi, tôi nói thêm:
- Thu hồi đặc san thì không khó, nhưng đuổi học vĩnh viễn Ban biên tập có đến năm bảy em học sinh, có cả tôi là điều không đơn giản và tôi đề nghị mời thêm anh Ngô Đình Cường cùng dự (Anh Ngô Đình Cường là đại diện phụ huynh của lớp, đồng thời có con là Ngô Đình Chính trong Ban biên tập, còn tôi là giáo sư hướng dẫn của lớp, nhưng trong danh sách Ban biên tập các em lại phong cho tôi là giáo sư cố vấn và đưa lên hàng đầu, tôi muốn đưa tôi vào những người bị đuổi là cố tình làm khó mấy ông cảnh sát).
Sáng hôm sau anh Cường và tôi đến trường đúng giờ, trong khi chờ cảnh sát đến, tôi trao đổi với anh Cường:
- Cảnh sát lấy cớ các em vô lễ với thầy cô mà đuổi học, cái đó dễ bênh vực, tôi chỉ sợ họ ghi về xu hướng chính trị và xa gần bày tỏ tinh thần phản chiến nó ẩn hiện trong một vài bài trong đặc san.
Anh Cường thêm:
- Cái đó tùy anh trình bày với họ, tôi chỉ nói ảnh hưởng xấu đến cuộc đời của các cháu nếu chúng bị đuổi học.
Khi cảnh sát đến, anh Cường tế nhị vén tay áo xem đồng hồ, hai cảnh sát hiểu ý , cười và xin lỗi đến muộn so với giờ hẹn.
Tôi lên tiếng trước:
- Xin các anh cho biết cụ thể, những điều các em vô lễ với thầy cô?
- Các em đã không dùng tên các thầy cô khi kể chuyện mà ví von bậy bạ…
- À ra thế, ví von thì có nhưng bậy bạ thì không. Trong bài nói về lịch học trong một buổi tác giả có ví von, như sắp đến giờ Pháp văn, tác giả viết là chúng ta sắp gặp một lữ khách hàng không rất trẻ, duyên dáng xinh đẹp của hãng Air France, hay sắp đến giờ Anh văn, tác giả viết chúng ta sắp gặp ngài Mir Braw, hay với tôi tác giả bảo thầy vào lớp tay không… Mỗi thầy cô có một thói quen dễ thương, các em dùng thói quen đó để chuyện trò. Cẩn thận hơn, Tôi đã gặp trước các thầy cô trình bày, các thầy cô đều cười và cho là chuyện con nít.
Đến lúc anh Cường thay mặt các gia đình học sinh thiết tha và chân tình đề nghị cảnh sát rút lại, những đề xuất trên với nhà trường.
Cuối cùng Hội đồng giáo sư nhà trường quyết định chỉ đuổi học 1 tháng với em Nguyễn Thị Minh Ngọc. Có được quyết định này chắc thầy Hiệu Trưởng đã vất vả lắm với cảnh sát, trong cái vui chung của cái án nhẹ đó, tôi có một nỗi buồn riêng, bởi Ngọc là em của Bs Nguyễn Sỹ Đức bạn cùng lớp với tôi ở Phan Bội Châu, năm đó lớp tôi ra Huế học chỉ có ba người Lê Thiệu Hùng, Nguyễn Sỹ Đức và tôi; Hùng và Đức học Y khoa, tôi học Sư phạm, buồn nữa Ngọc là học sinh có tiềm năng thực sự, tôi chỉ sợ với cú sốc này có ảnh hưởng xấu đến việc học của em sau này.
Nhưng không, em vẫn là một học sinh giỏi, thông minh. Em đã thành công khi vào đời, em là đạo diễn điện ảnh, rồi giảng dạy tại trường Đào tạo đạo diễn điện ảnh ở TP Hồ Chí Minh. Khi em làm xong bộ phim nói về Phan Thiết trong buổi chiếu ra mắt em có mời tôi xem, thực cảm động.
Anh Cường ơi ! Có lẽ anh trách tôi nhiều chuyện, nhưng thú thực trong nghề dạy học, chuyện anh và tôi cùng đối mặt giải quyết một khó khăn đời thường, đối với tôi có dấu ấn sâu sắc ghi đậm trong ký ức của tôi, tôi cảm được ở anh những khôn khéo tế nhị tinh tế như việc anh chỉ vén tay áo lên nhìn đồng hồ khi hai anh cảnh sát đến chậm so với giờ hẹn, là một đòn tâm lý cho họ không coi thường anh em mình, hay những lần được chuyện trò với anh ở biển Thương Chánh, nhà bác Xuân Hải… tôi đều nhận được ở Anh điều đó, biết vậy nên tôi không bất ngờ khi Anh có những bức ảnh để đời cho hôm nay và mai sau.
Hôm qua khi đến thắp nhang viếng Anh, tôi có xin phép Anh được viết đôi dòng để tỏ lòng thương nhớ Anh.
Phan Thiết, ngày 18 tháng 6 năn 2019
FB C Binh Hoang
Gần cuối học kỳ I, các em xin làm đặc san cho lớp, tôi tin tưởng các em nên chỉ trao đổi qua loa. Tôi hỏi:
- Các em định lấy tên đặc san là gì? Nội dung tập trung chủ đề nào
- Dạ Phiêu! Chủ đề chỉ là chuyện học hành, vui chơi và bày tỏ một vài ý riêng.
Tôi hơi ngạc nhiên và thực tình chưa hiểu tên đặc san mà các em chọn. Các em hứa lúc nào xong bản thảo sẽ gởi tôi xem.
Đọc bản thảo tôi hơi ngạc nhiên, các em đã có một độ chín tôi không ngờ, cả nội dung, cả hình thức và văn phong của các em. Tôi thích! Ví như trong lời nói đầu của đặc san các em viết:
Phi bạt
Bạt của Phiêu lẽ ra phải là phi bạt vì trong Phiêu ta tìm thấy PHI và YÊU. Tình thương khi đạt tới cõi vô thường thì còn gì để nói?
Yêu từ đó đã bát ngát tình người. Sau lộ trình dài bảy lần quay của đất, giữa những giọng nói quen thuộc nhau sau vuông cửa, giữa những khuôn mặt không quen mà biết rõ trong bờ tường cao, khép lại đôi cánh rộng, bụi trúc văn phòng, lề đường Nguyễn Hoàng nhả nhòa khói thuốc nhìn ai, cụm sầu chiều hực nở vàng thông vào hành lang phòng 6. Miếng tôn sứt , gió đập khan đài sau phòng 27, sân bóng rổ, mỗi sáng chào cờ dấu mặt cười khúc khích …Tất cả chẳng là những sợi tơ vướng vít chân ta trước khi bước vào cuộc sống hay sao con đường mới mà áo trắng sẽ được thay bằng áo màu, khoác mặt nạ nghiêm trang trên một bục cao nào đó.
Thế đấy, đặc san của học trò mà có ý tứ, văn phong như vậy, điều này còn thể hiện trong các bài khác của đặc san. Tuy nhiên vẫn có những bài mang tính đùa cợt con nít, có bài mang tính suy tư bay bổng của tuổi trẻ, những nội dung không bằng phẳng này, tôi có trao đổi với các thầy cô có liên quan.
Ba, bốn ngày sau khi phát hành đặc san, cảnh sát đến trường làm việc với Hiệu Trưởng, hôm sau đến, mời tôi đến phòng Hiệu trưởng làm việc, việc mà họ làm là trịch thu tờ đặc san và đề nghị nhà trường đuổi học vĩnh viễn những em trong ban biên tập, với lý do trong một bài viết đã có những lời ngỗ nghịch xúc phạm đến thầy cô giáo… Tôi hỏi “Còn gì nữa không các anh ”, họ lắc đầu.
Tôi lấy cớ bận dạy, hẹn sáng hôm sau trao đổi tiếp, trước khi đi, tôi nói thêm:
- Thu hồi đặc san thì không khó, nhưng đuổi học vĩnh viễn Ban biên tập có đến năm bảy em học sinh, có cả tôi là điều không đơn giản và tôi đề nghị mời thêm anh Ngô Đình Cường cùng dự (Anh Ngô Đình Cường là đại diện phụ huynh của lớp, đồng thời có con là Ngô Đình Chính trong Ban biên tập, còn tôi là giáo sư hướng dẫn của lớp, nhưng trong danh sách Ban biên tập các em lại phong cho tôi là giáo sư cố vấn và đưa lên hàng đầu, tôi muốn đưa tôi vào những người bị đuổi là cố tình làm khó mấy ông cảnh sát).
Sáng hôm sau anh Cường và tôi đến trường đúng giờ, trong khi chờ cảnh sát đến, tôi trao đổi với anh Cường:
- Cảnh sát lấy cớ các em vô lễ với thầy cô mà đuổi học, cái đó dễ bênh vực, tôi chỉ sợ họ ghi về xu hướng chính trị và xa gần bày tỏ tinh thần phản chiến nó ẩn hiện trong một vài bài trong đặc san.
Anh Cường thêm:
- Cái đó tùy anh trình bày với họ, tôi chỉ nói ảnh hưởng xấu đến cuộc đời của các cháu nếu chúng bị đuổi học.
Khi cảnh sát đến, anh Cường tế nhị vén tay áo xem đồng hồ, hai cảnh sát hiểu ý , cười và xin lỗi đến muộn so với giờ hẹn.
Tôi lên tiếng trước:
- Xin các anh cho biết cụ thể, những điều các em vô lễ với thầy cô?
- Các em đã không dùng tên các thầy cô khi kể chuyện mà ví von bậy bạ…
- À ra thế, ví von thì có nhưng bậy bạ thì không. Trong bài nói về lịch học trong một buổi tác giả có ví von, như sắp đến giờ Pháp văn, tác giả viết là chúng ta sắp gặp một lữ khách hàng không rất trẻ, duyên dáng xinh đẹp của hãng Air France, hay sắp đến giờ Anh văn, tác giả viết chúng ta sắp gặp ngài Mir Braw, hay với tôi tác giả bảo thầy vào lớp tay không… Mỗi thầy cô có một thói quen dễ thương, các em dùng thói quen đó để chuyện trò. Cẩn thận hơn, Tôi đã gặp trước các thầy cô trình bày, các thầy cô đều cười và cho là chuyện con nít.
Đến lúc anh Cường thay mặt các gia đình học sinh thiết tha và chân tình đề nghị cảnh sát rút lại, những đề xuất trên với nhà trường.
Cuối cùng Hội đồng giáo sư nhà trường quyết định chỉ đuổi học 1 tháng với em Nguyễn Thị Minh Ngọc. Có được quyết định này chắc thầy Hiệu Trưởng đã vất vả lắm với cảnh sát, trong cái vui chung của cái án nhẹ đó, tôi có một nỗi buồn riêng, bởi Ngọc là em của Bs Nguyễn Sỹ Đức bạn cùng lớp với tôi ở Phan Bội Châu, năm đó lớp tôi ra Huế học chỉ có ba người Lê Thiệu Hùng, Nguyễn Sỹ Đức và tôi; Hùng và Đức học Y khoa, tôi học Sư phạm, buồn nữa Ngọc là học sinh có tiềm năng thực sự, tôi chỉ sợ với cú sốc này có ảnh hưởng xấu đến việc học của em sau này.
Nhưng không, em vẫn là một học sinh giỏi, thông minh. Em đã thành công khi vào đời, em là đạo diễn điện ảnh, rồi giảng dạy tại trường Đào tạo đạo diễn điện ảnh ở TP Hồ Chí Minh. Khi em làm xong bộ phim nói về Phan Thiết trong buổi chiếu ra mắt em có mời tôi xem, thực cảm động.
Anh Cường ơi ! Có lẽ anh trách tôi nhiều chuyện, nhưng thú thực trong nghề dạy học, chuyện anh và tôi cùng đối mặt giải quyết một khó khăn đời thường, đối với tôi có dấu ấn sâu sắc ghi đậm trong ký ức của tôi, tôi cảm được ở anh những khôn khéo tế nhị tinh tế như việc anh chỉ vén tay áo lên nhìn đồng hồ khi hai anh cảnh sát đến chậm so với giờ hẹn, là một đòn tâm lý cho họ không coi thường anh em mình, hay những lần được chuyện trò với anh ở biển Thương Chánh, nhà bác Xuân Hải… tôi đều nhận được ở Anh điều đó, biết vậy nên tôi không bất ngờ khi Anh có những bức ảnh để đời cho hôm nay và mai sau.
Hôm qua khi đến thắp nhang viếng Anh, tôi có xin phép Anh được viết đôi dòng để tỏ lòng thương nhớ Anh.
Phan Thiết, ngày 18 tháng 6 năn 2019
FB C Binh Hoang
Tác phẩm:Qua Đồi Mộng
Giải thưởng Tượng Vàng Quốc Tế - APA 1972
Giải thưởng Tượng Vàng Quốc Tế - APA 1972
Wednesday, June 12, 2019
Tuesday, June 11, 2019
‘Kết hôn giả sẽ bị thu hồi thẻ xanh và bị trục xuất về Việt Nam’ - Phỏng vấn cựu Thẩm Phán Di Trú Phan Quang Tuệ Tâm An/Người Việt
Lời tòa soạn: Việc cơ quan công lực Hoa
Kỳ khám phá ra đường dây “kết hôn giả” liên quan tới hàng trăm người
tại Houston, Texas và đưa ra tòa vào ngày 10 Tháng Năm, 2019, vừa qua đã
gây rúng động trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Để độc giả hiểu rõ
hơn về những hậu quả của “kết hôn giả” và những vấn đề liên quan đến
luật pháp của việc này, nhật báo Người Việt đã có bài phỏng vấn cựu Thẩm
Phán Phan Quang Tuệ.
Thẩm Phán Phan Quang Tuệ từng phục vụ trong lãnh vực di trú từ năm 1985. Ông từng là Luật Sư Công Tố cho Cơ Quan Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ (United States Immigration and Naturalization Service – INS) trong 5 năm. Sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ Thẩm Phán Tòa Án Di Trú tại San Francisco trong 18 năm. Ông về hưu cuối năm 2012.
Trong khuôn khổ bài phỏng vấn này, mọi thông tin chỉ có tính cách tổng quát, không có tính cách cố vấn pháp lý, bởi luật pháp áp dụng cho mỗi trường hợp mỗi khác. Nếu độc giả có các vấn đề liên quan tới di trú, xin vui lòng tham khảo luật sư di trú, những người có thẩm quyền và kinh nghiệm tư vấn riêng cho quý vị.
Người Việt (NV): Khi nghe tin về một đường dây kết hôn giả do người Việt cầm đầu bị phát hiện và đưa ra tòa hồi Tháng Năm, 2019, ông có bình luận gì?
Cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ (PQT): Là một thẩm phán có 23 năm hoạt động trong lĩnh vực di trú, những tin tức như thế này không có gì lạ đối với tôi. Tôi không có bình luận gì về sự việc này.
Bởi vì khởi sự căn bản từ luật pháp của Hoa Kỳ thì bất kỳ ai bị truy tố đều được dự đoán là vô tội cho tới khi bị tòa tuyên án là có tội. Vì thế chúng ta không nên phán xét vội cho tới khi có phán quyết sau cùng của tòa án.
NV: Với tư cách là thẩm phán, ông có thể giải thích rõ hơn về lý lẽ căn bản của Luật Di Trú Hoa Kỳ đối với các diện bảo lãnh đoàn tụ gia đình trong đó có diện vợ, chồng?
PQT: Trước hết, muốn bảo lãnh một người nhập cảnh tới Hoa Kỳ và định cư ở đây, thì cần phải dựa trên các điều khoản về cấp chiếu khán.
Hàng năm, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ quyết định số chiếu khán được cấp, cho mỗi diện bảo lãnh và cho từng quốc gia. Tuy nhiên, chiếu khán dành cho các diện bảo lãnh trực hệ như cha mẹ, vợ chồng, con cái dưới tuổi vị thành niên của công dân Mỹ thì không có giới hạn. Các trường hợp khác như bảo lãnh anh chị em, thì số lượng chiếu khán rất hạn chế cho nên chờ đợi rất lâu.
Với chiếu khán phối ngẫu (spouse) của công dân Mỹ, người công dân bảo lãnh nay phải nộp đơn lên Cơ Quan Di Trú (USCIS) để xin cấp chiếu khán và thị thực (visa) cho người phối ngẫu của họ. Chiếu khán này sẽ chứng minh mối liên hệ vợ chồng để nhập cảnh vào Hoa Kỳ.
Chiếu khán cho vợ chồng của công dân Hoa Kỳ đặt trên căn bản một chính sách quốc gia chủ trương đề cao và bảo vệ đoàn tụ gia đình.
Như vậy căn bản thì Người Bảo Lãnh (Petitioner) và Người Được Bảo Lãnh (beneficiary) phải là vợ chồng thực sự, không phải vợ chồng giả. Tức là họ đến với nhau dựa trên nền tảng tình thương yêu thật sự (gọi là “good faith” hoặc “bona fide”).
Một cuộc hôn nhân không dựa trên căn bản tình yêu, không dựa trên ý định gắn bó thực sự, mà dựa trên một mục đích vụ lợi khác, thì chiếu khán này vô giá trị.
Thế nhưng chính sách nhân đạo này đã bị lợi dụng bằng việc làm giả hôn thú (sham marriage), khiến các nhà lập pháp phải điều chỉnh lại luật để đối phó lại với sự gian dối này.
NV: Luật pháp đã điều chỉnh như thế nào để đối phó với việc kết hôn giả, thưa ông?
PQT: Trước năm 1986 nếu một công dân Mỹ muốn bảo lãnh cho người phối ngẫu thì chỉ việc hoàn thành mẫu đơn I-130 để xin chiếu khán (và mẫu đơn I-751 để điều chỉnh tình trạng di trú, nếu cần). Quá trình xét duyệt hồ sơ rất nhanh chóng, dễ dàng và thậm chí có thể không phải phỏng vấn vẫn được cấp chiếu khán và thị thực và cùng lúc được điều chỉnh tình trạng di trú thành thường trú nhân.
Điều này đã bị người ta lạm dụng bằng việc kết hôn giả. Do đó, từ năm 1986, đạo luật “Immigration Marriage Fraud Amendments – IMFA” mới ra đời, đưa ra một cột mốc “hai năm.”
Cụ thể, khi một công dân Hoa Kỳ kết hôn với một người ngoại quốc (ví dụ Việt Nam), thì người phối ngẫu chỉ được điều chỉnh di trú tại Mỹ có điều kiện, tức là được cấp thẻ xanh có điều kiện (conditional green card). Sau hai năm, cả hai vợ chồng phải cùng nộp đơn (joint petition) xin hủy bỏ điều kiện di trú tạm thời trở thành thường trú nhân lâu dài. Khi đó Sở Di Trú sẽ cứu xét, và nếu cuộc hôn nhân là hợp pháp thực sự, người phối ngẫu sẽ được cấp thẻ xanh 10 năm và có thể gia hạn sau 10 năm, nếu không vi phạm pháp luật (permanent green card).
Ngược lại, nếu cuộc hôn nhân bị xem là bất hợp pháp từ khởi thủy là một cuộc hôn nhân giả mạo, người phối ngẫu có thể bị bác đơn xin thẻ xanh và phải trở về Việt Nam. Tuy vậy, cũng có những trường hợp ngoại lệ như người phối ngẫu bị bạo hành gia đình, thì lại có điều luật nhân đạo cho họ được ở lại Hoa Kỳ.
Những người phối ngẫu có thẻ “Thẻ Xanh” (Green Card) phải định cư ít nhất 3 năm tại Hoa Kỳ, thì mới được nộp Đơn Xin Nhập Tịch (mẫu đơn N-400) và trải qua một kỳ phỏng vấn nữa, mới được trở thành công dân Hoa Kỳ.
NV: Nếu việc kết hôn giả bị phát hiện, thì người bảo lãnh (petitioner) và người được bảo lãnh (beneficiary) sẽ bị hậu quả như thế nào, thưa ông?
PQT: Người bảo lãnh là công dân hoặc là thường trú nhân Hoa Kỳ. Họ cũng chính là người làm đơn, ký vào đơn và đứng ra nộp đơn bảo lãnh, xin visa cho người phối ngẫu. Do đó người bảo lãnh sẽ bị truy tố và chịu trách nhiệm hình sự theo luật pháp Hoa Kỳ.
Còn người phối ngẫu, tức là người được bảo lãnh, họ không trực tiếp làm đơn bảo lãnh, thì tùy trường hợp cụ thể để xử lý. Người phối ngẫu có thể nói họ là nạn nhân, họ không biết chuyện gì xảy ra, hay không có ý định phạm tội. Do đó không thể kết tội họ, nếu như không có bằng chứng nào chứng minh là họ có hành vi cố tình phạm tội.
NV: Vậy người phối ngẫu đang có thẻ xanh thông qua kết hôn giả, họ sẽ bị xử lý ra sao?
PQT: Như tôi đã giải thích ở trên, để bảo lãnh một người phối ngẫu được định cư ở Mỹ theo diện vợ chồng, thì trước hết phải là vợ chồng thật sự. Điều này được thể hiện qua chiếu khán thường trú nhân.
Vậy thì khi họ kết hôn giả, sẽ xem như không có chiếu khán, vì thế mà thẻ xanh của người phối ngẫu này, không còn giá trị.
Người phối ngẫu trong trường hợp này, sẽ bị thu hồi thẻ xanh và bị trục xuất về Việt Nam. Tất nhiên còn nhiều trường hợp ngoại lệ khác. Tòa án sẽ xét theo từng trường hợp cụ thể, “case by case.” Những người liên quan đến việc kết hôn giả sẽ được xử riêng biệt chứ không phải xử tập thể, hàng loạt như báo chí nói.
PV: Trong trường hợp công tố viên có bằng chứng cho thấy người phối ngẫu (người được bảo lãnh) có ý định phạm tội, thậm chí đã đưa tiền cho người bảo lãnh để họ đứng ra bảo lãnh diện vợ chồng bằng một hôn thú giả nhằm có được thẻ xanh thì sao?
PQT: Nếu người được bảo lãnh đang di cư trên lãnh thổ Hoa Kỳ tại thời điểm xử án, thì người này có thể bị truy tố. Nhưng tội danh và hình phạt luật định thế nào thì tùy trường hợp cụ thể.
Các trường hợp khác, chỉ cần khởi sự thủ tục dân sự (civil proceeding) và thực hiện các thủ tục hành chính để thâu hồi quy chế thường trú và tiến hành trục xuất mà không phải ngồi tù. Họ có thể bị chuyển sang cơ quan truy tố và thi hành về di trú (ICE) để xử lý và tiến hành trục xuất. Nhưng việc thực hiện trục xuất không đơn giản, cần phải qua một tiến trình.
NV: Vậy nếu người phối ngẫu còn đang ở Việt Nam, đang chờ được bảo lãnh thì sao, nếu hôn nhân của họ bị kết tội là giả?
PQT: Những người này không bị luận tội theo luật pháp Hoa Kỳ, nhưng hồ sơ của họ sẽ bị lưu trữ mãi mãi trong Sở Di Trú (USCIS) về việc dính líu tới kết hôn giả. Họ sẽ không có cơ hội để xin được thị thực vào Mỹ theo diện vợ chồng và có thể nhiều diện khác.
NV: Quá trình trục xuất diễn ra như thế nào thưa ông?
PQT: Cần hiểu rằng ICE là cơ quan truy tố và thi hành Luật Pháp Di Trú. Việc giam giữ (custody) của ICE không có tính cách trừng phạt mà chỉ có tính cách hành chánh nhằm giam giữ những người bị trục xuất để chờ ngày trả họ về đất nước mà họ có quốc tịch.
Thủ tục trục xuất phải dựa trên bản án sau cùng (tức là người bị trục xuất không còn kháng án gì nữa), và áp dụng cho những người không phải là công dân Mỹ. Trong bài phỏng vấn này, chúng ta đang nói về công dân Việt Nam.
Muốn trục xuất công dân này thì trước hết, chính phủ Việt Nam phải đồng ý nhận những người này.
Xin nói rõ thêm, ngày 22 Tháng Giêng năm 2008, hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký một thỏa ước (Memorandum of Understanding – MOU) là chính phủ Việt Nam sẽ bắt đầu nhận những người Việt Nam bị chính phủ Hoa Kỳ trục xuất những người đến Hoa Kỳ sau ngày thiết lập bang giao là ngày 12 Tháng Bảy, 1995.
Điều này, không có nghĩa là những người Việt Nam tới Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy năm 1995 thì được miễn trục xuất. Chỉ đơn giản là hai chính phủ chưa có một văn bản thỏa thuận nào dành cho các trường hợp này mà thôi.
NV: Nhưng nếu Hoa Kỳ đã ra lệnh trục xuất mà chính phủ Việt Nam chưa chịu nhận thì sao?
PQT: Nếu chính phủ Việt Nam không hoặc chưa có văn bản nhận lại công dân của họ thì ICE sau khi giam giữ trong một thời hạn nhất định (thường là 90 ngày), phải phóng thích những người này cho đến khi có thể thi hành lệnh trục xuất. Nhưng lại không có một quy chế, một văn bản nào để quản lý những người này khi phóng thích, thành thử ICE chỉ đòi hỏi họ trình diện có thể một năm một lần, hoặc qua điện thoại, hoặc gắn chip theo dõi vào chân. Các đời tổng thống trước, những người này vẫn được ở cùng gia đình, co khi con được có giấy phép để làm việc. Nhưng tới thời Tổng Thống Trump, ngay cả những người tuân thủ luật pháp, dù đang có gia đình, con nhỏ, dù đi trình diện đều đặn, thì tất cả cũng có thể bị giam giữ để chờ ngày trục xuất. Các cơ quan hành pháp, đã không suy xét theo từng trường hợp cụ thể, không nhân nhượng, gieo rắc nỗi sợ hãi cho nhiều gia đình. Điều này, theo cá nhân tôi, là một vấn đề về khía cạnh nhân đạo, đi ngược lại với giá trị căn bản của nước Mỹ.
NV: Nếu người phối ngẫu với công dân Hoa Kỳ đã có quốc tịch, khởi đầu là từ một hôn thú giả từ hàng chục năm về trước, nay bị phát hiện và bị kết tội, thì điều gì xảy ra với họ?
PQT: Căn cứ vào Luật Liên Bang Hoa Kỳ về việc tước quốc tịch (8 U.S. Code § 1451 part 340 – Revocation of naturalization) và hướng dẫn tại: Volume 12, Part L, Chapter 2 công bố trên Website Sở Di Trú (USCIS) thì: “Bất kể người nào có được Quốc Tịch Mỹ bằng cách gian dối, bất hợp pháp đều bị tước quốc tịch.”
Như vậy những người này, dù cố ý hay hay không cố ý trong việc kết hôn giả, dù sự việc xảy ra đã lâu hay họ đã có quốc tịch bao năm trước đi nữa, thì khi bị phát hiện vẫn có thể bị thu hồi quốc tịch. Chỉ có Văn Phòng Bộ Tư Pháp (US Attoney Office) mới có thẩm quyền khởi sự thủ tục và ra phán quyết về thu hồi quốc tịch.
Cần nói thêm rằng, nếu một người từng tham gia vào tổ chức khủng bố, hay một đảng độc tài như Đảng Cộng Sản trong vòng 5 năm kể từ ngày nhập quốc tịch, nếu bị phát hiện che giấu sự việc này, thì sẽ bị tước quốc tịch.
NV: Vậy còn người đóng vai trò là người bảo lãnh, nếu bị kết tội tham gia kết hôn giả, liệu có bị tước quốc tịch (hoặc tước thẻ xanh) và trục xuất không?
PQT: Nếu người bảo lãnh (đương đơn đứng ra nộp hồ sơ bảo lãnh) đã có quốc tịch Mỹ một cách hợp pháp (ví dụ do cha mẹ bảo lãnh, hoặc từng được bảo lãnh diện vợ chồng trước đó nhưng là vợ chồng thật) thì sẽ không bị tước quốc tịch. Người này là công dân Mỹ hợp pháp nên sẽ không bị trục xuất dù phạm tội kết hôn giả. Nhưng người này, nếu phạm tội kết hôn giả, sẽ bị xử tội hình sự theo luật pháp Hoa Kỳ và có thể bị kết án tù.
Trường hợp người này chưa có quốc tịch, đang là thường trú nhân hợp pháp, nếu phạm tội kết hôn giả, tùy theo mức độ nặng nhẹ, có thể bị xử tội hình sự và có thể bị trục xuất về Việt Nam (nếu người này định cư Mỹ sau ngày 12 Tháng Bảy, 1995).
NV: Xin cảm ơn cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ về bài phỏng vấn này! (Tâm An)
Thẩm Phán Phan Quang Tuệ từng phục vụ trong lãnh vực di trú từ năm 1985. Ông từng là Luật Sư Công Tố cho Cơ Quan Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ (United States Immigration and Naturalization Service – INS) trong 5 năm. Sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ Thẩm Phán Tòa Án Di Trú tại San Francisco trong 18 năm. Ông về hưu cuối năm 2012.
Trong khuôn khổ bài phỏng vấn này, mọi thông tin chỉ có tính cách tổng quát, không có tính cách cố vấn pháp lý, bởi luật pháp áp dụng cho mỗi trường hợp mỗi khác. Nếu độc giả có các vấn đề liên quan tới di trú, xin vui lòng tham khảo luật sư di trú, những người có thẩm quyền và kinh nghiệm tư vấn riêng cho quý vị.
Người Việt (NV): Khi nghe tin về một đường dây kết hôn giả do người Việt cầm đầu bị phát hiện và đưa ra tòa hồi Tháng Năm, 2019, ông có bình luận gì?
Cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ (PQT): Là một thẩm phán có 23 năm hoạt động trong lĩnh vực di trú, những tin tức như thế này không có gì lạ đối với tôi. Tôi không có bình luận gì về sự việc này.
Bởi vì khởi sự căn bản từ luật pháp của Hoa Kỳ thì bất kỳ ai bị truy tố đều được dự đoán là vô tội cho tới khi bị tòa tuyên án là có tội. Vì thế chúng ta không nên phán xét vội cho tới khi có phán quyết sau cùng của tòa án.
NV: Với tư cách là thẩm phán, ông có thể giải thích rõ hơn về lý lẽ căn bản của Luật Di Trú Hoa Kỳ đối với các diện bảo lãnh đoàn tụ gia đình trong đó có diện vợ, chồng?
PQT: Trước hết, muốn bảo lãnh một người nhập cảnh tới Hoa Kỳ và định cư ở đây, thì cần phải dựa trên các điều khoản về cấp chiếu khán.
Hàng năm, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ quyết định số chiếu khán được cấp, cho mỗi diện bảo lãnh và cho từng quốc gia. Tuy nhiên, chiếu khán dành cho các diện bảo lãnh trực hệ như cha mẹ, vợ chồng, con cái dưới tuổi vị thành niên của công dân Mỹ thì không có giới hạn. Các trường hợp khác như bảo lãnh anh chị em, thì số lượng chiếu khán rất hạn chế cho nên chờ đợi rất lâu.
Với chiếu khán phối ngẫu (spouse) của công dân Mỹ, người công dân bảo lãnh nay phải nộp đơn lên Cơ Quan Di Trú (USCIS) để xin cấp chiếu khán và thị thực (visa) cho người phối ngẫu của họ. Chiếu khán này sẽ chứng minh mối liên hệ vợ chồng để nhập cảnh vào Hoa Kỳ.
Chiếu khán cho vợ chồng của công dân Hoa Kỳ đặt trên căn bản một chính sách quốc gia chủ trương đề cao và bảo vệ đoàn tụ gia đình.
Như vậy căn bản thì Người Bảo Lãnh (Petitioner) và Người Được Bảo Lãnh (beneficiary) phải là vợ chồng thực sự, không phải vợ chồng giả. Tức là họ đến với nhau dựa trên nền tảng tình thương yêu thật sự (gọi là “good faith” hoặc “bona fide”).
Một cuộc hôn nhân không dựa trên căn bản tình yêu, không dựa trên ý định gắn bó thực sự, mà dựa trên một mục đích vụ lợi khác, thì chiếu khán này vô giá trị.
Thế nhưng chính sách nhân đạo này đã bị lợi dụng bằng việc làm giả hôn thú (sham marriage), khiến các nhà lập pháp phải điều chỉnh lại luật để đối phó lại với sự gian dối này.
NV: Luật pháp đã điều chỉnh như thế nào để đối phó với việc kết hôn giả, thưa ông?
PQT: Trước năm 1986 nếu một công dân Mỹ muốn bảo lãnh cho người phối ngẫu thì chỉ việc hoàn thành mẫu đơn I-130 để xin chiếu khán (và mẫu đơn I-751 để điều chỉnh tình trạng di trú, nếu cần). Quá trình xét duyệt hồ sơ rất nhanh chóng, dễ dàng và thậm chí có thể không phải phỏng vấn vẫn được cấp chiếu khán và thị thực và cùng lúc được điều chỉnh tình trạng di trú thành thường trú nhân.
Điều này đã bị người ta lạm dụng bằng việc kết hôn giả. Do đó, từ năm 1986, đạo luật “Immigration Marriage Fraud Amendments – IMFA” mới ra đời, đưa ra một cột mốc “hai năm.”
Cụ thể, khi một công dân Hoa Kỳ kết hôn với một người ngoại quốc (ví dụ Việt Nam), thì người phối ngẫu chỉ được điều chỉnh di trú tại Mỹ có điều kiện, tức là được cấp thẻ xanh có điều kiện (conditional green card). Sau hai năm, cả hai vợ chồng phải cùng nộp đơn (joint petition) xin hủy bỏ điều kiện di trú tạm thời trở thành thường trú nhân lâu dài. Khi đó Sở Di Trú sẽ cứu xét, và nếu cuộc hôn nhân là hợp pháp thực sự, người phối ngẫu sẽ được cấp thẻ xanh 10 năm và có thể gia hạn sau 10 năm, nếu không vi phạm pháp luật (permanent green card).
Ngược lại, nếu cuộc hôn nhân bị xem là bất hợp pháp từ khởi thủy là một cuộc hôn nhân giả mạo, người phối ngẫu có thể bị bác đơn xin thẻ xanh và phải trở về Việt Nam. Tuy vậy, cũng có những trường hợp ngoại lệ như người phối ngẫu bị bạo hành gia đình, thì lại có điều luật nhân đạo cho họ được ở lại Hoa Kỳ.
Những người phối ngẫu có thẻ “Thẻ Xanh” (Green Card) phải định cư ít nhất 3 năm tại Hoa Kỳ, thì mới được nộp Đơn Xin Nhập Tịch (mẫu đơn N-400) và trải qua một kỳ phỏng vấn nữa, mới được trở thành công dân Hoa Kỳ.
NV: Nếu việc kết hôn giả bị phát hiện, thì người bảo lãnh (petitioner) và người được bảo lãnh (beneficiary) sẽ bị hậu quả như thế nào, thưa ông?
PQT: Người bảo lãnh là công dân hoặc là thường trú nhân Hoa Kỳ. Họ cũng chính là người làm đơn, ký vào đơn và đứng ra nộp đơn bảo lãnh, xin visa cho người phối ngẫu. Do đó người bảo lãnh sẽ bị truy tố và chịu trách nhiệm hình sự theo luật pháp Hoa Kỳ.
Còn người phối ngẫu, tức là người được bảo lãnh, họ không trực tiếp làm đơn bảo lãnh, thì tùy trường hợp cụ thể để xử lý. Người phối ngẫu có thể nói họ là nạn nhân, họ không biết chuyện gì xảy ra, hay không có ý định phạm tội. Do đó không thể kết tội họ, nếu như không có bằng chứng nào chứng minh là họ có hành vi cố tình phạm tội.
NV: Vậy người phối ngẫu đang có thẻ xanh thông qua kết hôn giả, họ sẽ bị xử lý ra sao?
PQT: Như tôi đã giải thích ở trên, để bảo lãnh một người phối ngẫu được định cư ở Mỹ theo diện vợ chồng, thì trước hết phải là vợ chồng thật sự. Điều này được thể hiện qua chiếu khán thường trú nhân.
Vậy thì khi họ kết hôn giả, sẽ xem như không có chiếu khán, vì thế mà thẻ xanh của người phối ngẫu này, không còn giá trị.
Người phối ngẫu trong trường hợp này, sẽ bị thu hồi thẻ xanh và bị trục xuất về Việt Nam. Tất nhiên còn nhiều trường hợp ngoại lệ khác. Tòa án sẽ xét theo từng trường hợp cụ thể, “case by case.” Những người liên quan đến việc kết hôn giả sẽ được xử riêng biệt chứ không phải xử tập thể, hàng loạt như báo chí nói.
PV: Trong trường hợp công tố viên có bằng chứng cho thấy người phối ngẫu (người được bảo lãnh) có ý định phạm tội, thậm chí đã đưa tiền cho người bảo lãnh để họ đứng ra bảo lãnh diện vợ chồng bằng một hôn thú giả nhằm có được thẻ xanh thì sao?
PQT: Nếu người được bảo lãnh đang di cư trên lãnh thổ Hoa Kỳ tại thời điểm xử án, thì người này có thể bị truy tố. Nhưng tội danh và hình phạt luật định thế nào thì tùy trường hợp cụ thể.
Các trường hợp khác, chỉ cần khởi sự thủ tục dân sự (civil proceeding) và thực hiện các thủ tục hành chính để thâu hồi quy chế thường trú và tiến hành trục xuất mà không phải ngồi tù. Họ có thể bị chuyển sang cơ quan truy tố và thi hành về di trú (ICE) để xử lý và tiến hành trục xuất. Nhưng việc thực hiện trục xuất không đơn giản, cần phải qua một tiến trình.
NV: Vậy nếu người phối ngẫu còn đang ở Việt Nam, đang chờ được bảo lãnh thì sao, nếu hôn nhân của họ bị kết tội là giả?
PQT: Những người này không bị luận tội theo luật pháp Hoa Kỳ, nhưng hồ sơ của họ sẽ bị lưu trữ mãi mãi trong Sở Di Trú (USCIS) về việc dính líu tới kết hôn giả. Họ sẽ không có cơ hội để xin được thị thực vào Mỹ theo diện vợ chồng và có thể nhiều diện khác.
NV: Quá trình trục xuất diễn ra như thế nào thưa ông?
PQT: Cần hiểu rằng ICE là cơ quan truy tố và thi hành Luật Pháp Di Trú. Việc giam giữ (custody) của ICE không có tính cách trừng phạt mà chỉ có tính cách hành chánh nhằm giam giữ những người bị trục xuất để chờ ngày trả họ về đất nước mà họ có quốc tịch.
Thủ tục trục xuất phải dựa trên bản án sau cùng (tức là người bị trục xuất không còn kháng án gì nữa), và áp dụng cho những người không phải là công dân Mỹ. Trong bài phỏng vấn này, chúng ta đang nói về công dân Việt Nam.
Muốn trục xuất công dân này thì trước hết, chính phủ Việt Nam phải đồng ý nhận những người này.
Xin nói rõ thêm, ngày 22 Tháng Giêng năm 2008, hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký một thỏa ước (Memorandum of Understanding – MOU) là chính phủ Việt Nam sẽ bắt đầu nhận những người Việt Nam bị chính phủ Hoa Kỳ trục xuất những người đến Hoa Kỳ sau ngày thiết lập bang giao là ngày 12 Tháng Bảy, 1995.
Điều này, không có nghĩa là những người Việt Nam tới Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy năm 1995 thì được miễn trục xuất. Chỉ đơn giản là hai chính phủ chưa có một văn bản thỏa thuận nào dành cho các trường hợp này mà thôi.
NV: Nhưng nếu Hoa Kỳ đã ra lệnh trục xuất mà chính phủ Việt Nam chưa chịu nhận thì sao?
PQT: Nếu chính phủ Việt Nam không hoặc chưa có văn bản nhận lại công dân của họ thì ICE sau khi giam giữ trong một thời hạn nhất định (thường là 90 ngày), phải phóng thích những người này cho đến khi có thể thi hành lệnh trục xuất. Nhưng lại không có một quy chế, một văn bản nào để quản lý những người này khi phóng thích, thành thử ICE chỉ đòi hỏi họ trình diện có thể một năm một lần, hoặc qua điện thoại, hoặc gắn chip theo dõi vào chân. Các đời tổng thống trước, những người này vẫn được ở cùng gia đình, co khi con được có giấy phép để làm việc. Nhưng tới thời Tổng Thống Trump, ngay cả những người tuân thủ luật pháp, dù đang có gia đình, con nhỏ, dù đi trình diện đều đặn, thì tất cả cũng có thể bị giam giữ để chờ ngày trục xuất. Các cơ quan hành pháp, đã không suy xét theo từng trường hợp cụ thể, không nhân nhượng, gieo rắc nỗi sợ hãi cho nhiều gia đình. Điều này, theo cá nhân tôi, là một vấn đề về khía cạnh nhân đạo, đi ngược lại với giá trị căn bản của nước Mỹ.
NV: Nếu người phối ngẫu với công dân Hoa Kỳ đã có quốc tịch, khởi đầu là từ một hôn thú giả từ hàng chục năm về trước, nay bị phát hiện và bị kết tội, thì điều gì xảy ra với họ?
PQT: Căn cứ vào Luật Liên Bang Hoa Kỳ về việc tước quốc tịch (8 U.S. Code § 1451 part 340 – Revocation of naturalization) và hướng dẫn tại: Volume 12, Part L, Chapter 2 công bố trên Website Sở Di Trú (USCIS) thì: “Bất kể người nào có được Quốc Tịch Mỹ bằng cách gian dối, bất hợp pháp đều bị tước quốc tịch.”
Như vậy những người này, dù cố ý hay hay không cố ý trong việc kết hôn giả, dù sự việc xảy ra đã lâu hay họ đã có quốc tịch bao năm trước đi nữa, thì khi bị phát hiện vẫn có thể bị thu hồi quốc tịch. Chỉ có Văn Phòng Bộ Tư Pháp (US Attoney Office) mới có thẩm quyền khởi sự thủ tục và ra phán quyết về thu hồi quốc tịch.
Cần nói thêm rằng, nếu một người từng tham gia vào tổ chức khủng bố, hay một đảng độc tài như Đảng Cộng Sản trong vòng 5 năm kể từ ngày nhập quốc tịch, nếu bị phát hiện che giấu sự việc này, thì sẽ bị tước quốc tịch.
NV: Vậy còn người đóng vai trò là người bảo lãnh, nếu bị kết tội tham gia kết hôn giả, liệu có bị tước quốc tịch (hoặc tước thẻ xanh) và trục xuất không?
PQT: Nếu người bảo lãnh (đương đơn đứng ra nộp hồ sơ bảo lãnh) đã có quốc tịch Mỹ một cách hợp pháp (ví dụ do cha mẹ bảo lãnh, hoặc từng được bảo lãnh diện vợ chồng trước đó nhưng là vợ chồng thật) thì sẽ không bị tước quốc tịch. Người này là công dân Mỹ hợp pháp nên sẽ không bị trục xuất dù phạm tội kết hôn giả. Nhưng người này, nếu phạm tội kết hôn giả, sẽ bị xử tội hình sự theo luật pháp Hoa Kỳ và có thể bị kết án tù.
Trường hợp người này chưa có quốc tịch, đang là thường trú nhân hợp pháp, nếu phạm tội kết hôn giả, tùy theo mức độ nặng nhẹ, có thể bị xử tội hình sự và có thể bị trục xuất về Việt Nam (nếu người này định cư Mỹ sau ngày 12 Tháng Bảy, 1995).
NV: Xin cảm ơn cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ về bài phỏng vấn này! (Tâm An)
Subscribe to:
Posts (Atom)