Thursday, April 25, 2019

Skull and Bones chọn ngày Quốc Khánh 30/4 cho VN

Nhân dịp 30/4 tôi trả lời cho bạn hieunguyen11 về câu hỏi: Kính thưa anh VT ở bên CT họ bàn tán về chuyện Tr/u H.M.Đường nhận lệnh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đánh chìm tàu HQ401 để giết tù chính trị, Thưa anh chuyện này theo anh có không anh?
Đệ
hieunguyen11
Trả lời: Tất cả lịnh-lạc đều nằm sau bức tường “Skull and Bones conspiracy” hay gọi là “secret society”, bạn click vào đó để biết thêm về cái gốc của cuộc chiên VN, tất cả lịnh lạc đều từ Ngôi-Mộ “Secrets of the Tomb” nầy mà ra, cho nên vụ trung úy Huỳnh Minh Đường là chuyện nhỏ như hạt bụi, không nên kể lại cái ngọn mà nên nói thẳng về nguồn gốc. Bạn nên click thêm vào “The Kennedy Assassination Averell Harriman connection” thì rõ.
Những tài liệu mật nầy được gọi là giải mật nhưng có bóp méo chút ít, ngộ nhứt là nó nằm y chang chi tiết mà trong 2 tác phẩm “The New Legion”. Nói có tính cách khôi-hài một chút là tài liệu mật 2012 mới nhứt của Mỹ được tiết lộ, nhưng nó đều nằm chình ình trong hai tác phẩm của tác giả Vinh Truong. Thí dụ như một đoạn lấy ra từ tác phẩm The New Legion dưới đây bằng tiếng Việt:
Ðầu mối 2 cái chết của TT Diệm/Kennedy
Mở hồ-sơ 2 cuộc thãm sát 2 anh em Diệm/Nhu và Kennedys
Sự thật chủ-chốt cuộc chiến VN do từ cuộc họp ngày 20/11/1963, Mc George Bundy, Skull and Bone 40 chủ tọa, đánh dấu khúc quanh lịch sử đẫm máu nhứt cho dân tộc VN, một cuộc chiến huynh đệ tương tàn đến tận tuyệt, thề không đội trời chung qua sự ủy nhiệm của ngoại bang, cái gọi là ý thức hệ: “căm thù giai cấp” và “căm thù Cộng Sản” dĩ nhiên cái thế lực quỷ khốc thần sầu nầy cũng thừa hiểu rằng, anh em trong nhà nếu không hận thù thì làm đếch gì chém. giết nhau đến tận tuyệt!
Trung tá Lucien Conein (hình Vol-1, trang 70) cựu điệp-viên OSS-19, bây giờ là nhân viên CIA giữ vai trò liên lạc với năm Tướng lãnh phản loạn trong âm mưu lật đổ chính phủ Diệm, người đứng giữa là Tướng Trần Văn Ðôn, hai người quen nhau có dự mưu từ lâu (CIA) và đều sanh ra tại Pháp. Các tướng khác (từ trái qua phải) Lê Văn Kim, Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Vỹ, và Mai Hữu Xuân.
Nếu như TT Kennedy và TT Diệm không bị triệt tiêu thì Siêu Chánh Phủ không thể thi hành chương trình “CIP”: Dữ kiện của biến cố, 2 ngày trước khi TT Kennedy sẽ phải bị ám-sát và 18 ngày TT Diệm đã bị thảm-sát, có một cuộc họp hỏa tốc bí mật lạ thường xảy ra tại Honolulu ngày 20/11/1963. Mc George Bundy, Bones-40, Cố-vấn TT Kennedy, là người đại diện toàn quyền của Đảng-hội Skull and Bones lôi xềnh-xệch cho bằng được hai vị Bộ-Trưởng, Dean Rusk Bộ ngoại-giao, và McNamara Bộ quốc-phòng cùng ra lệnh khẩn cấp triệu-hồi Đại-sứ Lodge và Tướng Harkins bay gấp qua Honolulu để nhận chỉ thị khẩn mật:
- Loại trừ 5 Tướng lãnh ở trên ra khỏi cơ-quan quyền lực tức khắc.
- Xóa bỏ hoàn-toàn chương trình Ấp-chiến-lược, Dinh-điền, và giải tán Thanh-niên, Thanh-nữ Cộng-Hòa, Đặc ủy trung ương Tình báo và các đơn vị Tình báo chiến lược
- Giả tạo sự kiện Hà-Nội khiêu-khích để có cớ đem quân tác chiến (Mỹ) qua Việt-Nam.
- Thiết lập hàng rào điện-tử Mc Namara không phải để chận đứng mà để theo dỏi kiểm soát nhịp độ Lính BV xâm nhập vào Nam qua Xa-lộ Harriman (đường Mòn Hồ)
- Mc Namara được chỉ định là người quản-lý điều hành tổng quát cuộc chiến VN
Không còn chối cãi gì nữa Mc George Bundy (Skull and Bones thứ 40) Cố-vấn Kennedy đã biết chắc rằng TT Kennedy sẽ phải bị ám-sát vào một ngày ngắn nhất! Nếu TT Kennedy còn ngồi trên chiếc ghế quyền lực thì kế hoạch CIP (Counter Insurgency Program) sẽ không thể hoàn thành được, chúng ta hãy nghiên cứu tinh-thần công-điện đánh đi trong thời gian cuộc đảo chánh TT Diệm xảy ra do Skull and Bones 40 (Mc George Bundy) gởi cho Đại-sứ Lodge ngày 30/10/1963 thì rõ. Thái độ đảo ngược 100% tinh-thần công-điện của ngày họp hôm đó đã chứng minh trong cuộc họp Honolulu nầy là TT Kennedy sẽ phải bị triệt hạ vì sự cấu kết chặt-chẽ cho quyền lợi của loài Quỷ-Đỏ Liên-Xô với con Ma Đầu-lâu Xương-người, qua cái trục ma-quỷ đã gắn bó làm ăn với nhau từ lâu.
Khó khăn: làm sao bứng gốc 5 Tướng lãnh đã thâm niên và sừng-sỏ nhất?
Giải quyết: Tướng Maxwell Taylor, Tham-mưu trưởng Liên-quân và Mc Namara sẽ qua lại Việt-Nam, và mỗi người một bên, nắm tay vị Tướng chỉnh lý (Tướng Nguyễn-Khánh) đó dơ lên cao trước mắt dân chúng Miền-Nam để tỏ bày sự ủng-hộ hoàn-toàn của Hoa-kỳ cùng tạo dựng niềm tin và bơm sự can-đảm cho vị Tướng trẻ nầy. Sau khi đẩy 5 Tướng nầy ra khỏi cơ-quan quyền-lực, rồi phải kiếm cho được một Tướng rất trẻ hay bốc đồng lên phục hồi trật tự xã-hội; Chọn một người với vẻ mặt lạnh-lùng như Trưởng một Băng-đảng, đi đâu cũng có lố-nhố 4, 5 con khỉ-đột đi theo, mang khẩu súng lục kè-kè bên hông như những Cow-Boy hồi Tây-tiến của chúng ta. Điều quan trọng theo kế hoạch xóa bỏ Miền-Nam trong mật kế Pynnsylvania, axiom-1, nên chọn những Tướng lãnh trẻ và bất tài để dễ sai bảo, dùng khoa huyền-bí mê-tính hay khoa thực-tiễn bằng Dollar và danh vọng để chỉ vẻ họ như một diễn viên trong tấn tuồng hát cải lương, khi thì để râu dưới, khi thì cạo râu trên, vì danh lợi nên dễ-dàng họ nghe theo ta! Sau đó phải có một thời gian thật ổn định để lo việc lần-lượt rút quân về để hoàn tất axiom-3.
Harriman có lần đã thổ-lộ với các công-sự viên của Ông rằng: Thuyết phục Hà-Nội dễ hơn thuyết phục Sàigòn, như việc giải quyết vấn đề Lào 1962 với sư cương quyết bướng bỉnh chống đối của cố-vấn chính trị Ngô Ðình Nhu, cũng như trong chiến cuộc Lam-Sơn 719. Tướng Võ-Nguyên-Giáp tuy rằng công-cụ “gián-tiếp” qua áp-lực trực-tiếp của Liên-Xô, nhưng thuận lợi cho kế hoạch chiến lược của Mỹ. Lấy thí dụ, một lực-lượng hùng-hậu như vậy tại vùng Phi quân-sự, thay vì tấn kích một nơi xa-xôi như đường 9 Tchepone, Lào mà tấn công thẳng vào cứ điểm của Mỹ tại Khe-Sanh thì không những điều binh được gần hơn mà dễ đem chiến thắng thấy rõ. Nhưng Tướng Giáp lại tuân thủ giúp Mỹ hoàn thành chiến lược trận đánh; còn Sàigòn TT Thiệu ra lệnh Tướng Lãm cho một đơn vị nhỏ của Sư-đoàn-1 vào “đái một bãi rồi ra”, coi thường lời thuyết phục của Tướng Haig phải tấn công vào Căn-cứ hậu-cần 604 của Bắc-Việt, kéo dài cho đến cuối tháng 4 năm 1971. Nhưng làm sao chúng ta hiểu nổi cái thế lực ghê-gớm nầy đã dựng lên một chế độ siêu Mafia HCM nhưng lại không có cụ mà là Ðãng-trưởng Mafia là Lê Ðức Thọ độc quyền chuyên chính cho đến ngày cái thế lực nầy cho ra đời cuốn DVD, sự thật HCM mới chịu giải tán cái đảng oái-oăm nầy. Trong khi chế độ Saigon thì bị CIA phá thối để dễ-dàng bức tử nó theo định-kiến-1, nhưng may mắn cho TT Thiệu vì là thời gian cần ổn định để Mỹ rút quân êm trôi nên Tổng thống Thiệu vẫn an-toàn giữ nguyên ngôi vị.
Ngay sau khi lập bang giao với Việt-Nam năm 1995. Phái đoàn Mc Namara cùng Donald Rumsfeld qua thăm Việt-Nam gặp Tướng Giáp, cám ơn rối-rít bồ-tèo công-cụ gián tiếp qua ngôn từ “bái phục sự chiến đấu anh hùng của nhân dân VN”. Còn Henry Cabot Lodge hồi tưởng lại trong vụ khai-trừ 5 Tướng lãnh nầy mà nghĩ lại phận mình cũng phải bị hy-sinh giống như Đại-úy Nhung giết TT Diệm và Lee Harvey Osward giết TT Kennedy. Năm 1969 Harriman rời chính trường sau khi vẽ ra khuôn-mẫu Hiệp-định Paris cho Hanoi và nhét Lodge vào vị trí điều hợp hiệp định, rồi lu mờ theo cung cách về nguyên tắc tình báo “Cam vắt hết nước rồi bỏ Vỏ” Lodge uất-ức bèn cho ra đời một cuốn sách “Bão có nhiều Tâm” (The Storm has many eyes) nhưng gọp lại hết những thành viên Skull and Bones thì chỉ còn có hai tâm: Một là Kennedy, Hai là Skull and Bones: thân phận trên đe dưới búa, thật đáng cái đời ham danh lợi!
Để kết luận phần nầy, nếu chúng ta xem và đọc tất cả 174 tài liệu mật công bố 4/2005 và 5/2006, Viện Văn-khố An-ninh Quốc-gia (National Security Archine) của Hoa-kỳ đã cho phổ biến 2.100 bản văn (memoranda) dài 28.000 trang mang tên “The Kissinger Transcripts:A Verbatim record of U.S. Diplomancy, 1969-1977” đa số liên quan đến sự thật cuộc chiến Việt-Nam và còn rất nhiều tài liệu quan trọng khác rồi đây sẽ được đưa ra ánh-sáng. Độc giả sẽ bị tẩu hỏa nhập ma hay bị loạn giác, dễ bị lầm lẫn không hiểu đâu là sự thật; Nhưng tất cả chỉ có cô-đọng trong một bức điện tín mà Mc George Bundy gởi cho Lodge ngày 30/10/1963 trong khi cuộc đảo chánh đang tiến hành quyết liệt, với độ mật “top secret-eyes only for Ambassador Lodge” (xem bản văn trong mục Tác phẩm và Tác giả).
Chương trình CIP phải được hoàn thành bất cứ giá nào dù phải giải quyết bằng máu!
Thật vậy, nó phải trả bằng một cái giá khá đắt là phải hy sinh hai vị Tổng thống Kennedy và Diệm, sau cùng phải hoàn thành cho bằng được “định-kiến-1” là buộc phải hất khỏi chiếc ghế quyền lực của TT Nixon và TT Thiệu để vô hiệu hóa những bức thư riêng tư đã cam kết nếu phía CSBV vi phạm Hiệp định Paris (mà chắc chắn sẽ phải vi phạm theo lộ-đồ chiến lược “Eurasian”. Vì sự sống còn của thế chiến lược toàn cầu, Ðảng Skull and Bones đã hoàn thành chu-đáo hai cuộc hành quân bí mật: 1943 OSS khuyến dụ Cụ Hồ về mật-khu Pát-bó để khuấy động chiến tranh chống Nhựt, Pháp, và VNCH. Ðến 1949 CIA cũng đã hoàn thành cuộc di tản cưỡng-bức Tưởng Giới Thạch và phe nhóm về Ðài-loan để đi vào một cuộc chiến lâu dài qua ý thức hệ Cộng Sản và Tư bản [Chiến tranh Lạnh]
Nhưng TT Kennedy mới thật sự là một trở ngại chính của kế hoạch CIP: Kennedy nói với viên chức thân cận ở Tòa Bạch ốc, ông O’Donnell rằng: “So we had better made damned sure that I’m reelected!” Năm tới, 1964 sau khi tái ứng-cử thành công, Kennedy sẽ đem tất cả quân đội Mỹ về xứ, có nghĩa là hủy bỏ kế hoạch CIP? Kennedy còn bảo đảm với hai nữ sử-gia, Marilyn B Young và Ellen Hammer “Chúng tôi sẽ rút quân Mỹ bất cứ bao nhiêu và bất cứ lúc nào mà chính phủ Nam VN yêu cầu”. Kennedy không muốn gởi quân Mỹ đi chiến đấu một nơi quá xa xôi, ông cho rằng “Người Việt phải tự chiến đấu để bảo vệ tự do, chúng ta không thể chiến đấu giùm cho họ!” (đúng theo sách-lược của anh em Diệm/Nhu) Kennedy không muốn dính dấp quân sự, ông nhứt quyết không để cho Hoa kỳ phải vướng vào sự can thiệp ở một vùng xa xôi nầy. Ngoài ra Kennedy còn muốn đem cố-vấn Mỹ về bất cứ bao nhiêu nếu phía VN yêu cầu, TT Diệm và Cố vấn Nhu muốn cố-vấn Mỹ về hết càng sớm càng tốt. Và sau cùng tháng 10/1963 chính phủ Kennedy cúp viện trợ hoàn toàn, thế là cơn giông-bão xảy ra, Skull and Bones không thể để quyền lợi của Tập đoàn tư bản bị cấp-bức. Hàng tỷ hộp C-Ration (tiếp nối lương khô từ Aid to Russia 1941-46 Plan) cho khoảng 3 triệu Lính [luân phiên định kỳ một năm] tác chiến đã lỡ sản xuất vào năm 1961 và 1962 (trên nấp hộp có ghi năm tháng để ghi dấu ngày hết hạn) TT Kennedy sự thật không quan tâm đến quyền lợi quá đáng của một số it tài phiệt Mỹ [American First] Cái siêu thế lực ghê-gớm nầy có để yên cho TT Kennedy hay không?
Nhưng TT Kennedy con người nhìn thấy xa hơn tập đoàn tư bản thiển cận chỉ nhìn vào quyền lợi hẹp hòi mà quên đi lợi ích sống còn từ trong nước ra ngoài. Kennedy thấu hiểu sức mạnh của Hoa kỳ sẽ chiến thắng Cộng sản bằng nền dân chủ pháp trị chớ không dựa vào sức mạnh quân sự, Kennedy mạnh dạn tuyên bố: “Không một ai bắt buộc tôi phải làm những gì mà tôi cảm thấy đi ngược lại với quyền lợi của quốc dân” Kennedy đã nói với những chính khách trong khi đang có biến cố về Hỏa tiễn nguyên tử tại Cuba, “Các ông nghĩ rằng Tôi sẽ khai chiến bằng trao-đổi nguyên tử để làm gì! Tôi không cho đó là biện pháp khôn ngoan” Kennedy tiếp “Và ông củng như những chính khách khác sẽ cho là tôi điên… chúng ta sống cùng chung một hành tinh, cùng thở chung một loại dưỡng khí, chúng ta ao ước con cháu chúng ta sống hạnh phúc vui vẻ… tại sao chúng ta phải đi đến tự hủy diệt?”
Từ sau vụ chịu trách nhiệm oan uổng về vụ thất bại Vịnh Con Heo, TT Kennedy không còn tin vào Trưởng tình báo CIA cũng như các Tướng lãnh ở Ngũ Giác đài, Kennedy trở nên một người cương quyết trong chính sách nhưng lại quá cô-đơn vì bị bao quanh khống chế bởi vô số các thành viên Skull and Bones đã được xắp xếp vào mốc chốt của chính quyền Kennedy. Nhưng không may thay, những kẻ chủ-chiến nầy lại bằng mọi giá phải triệt tiêu cho bằng được TT Kennedy để phát động thế chiến lược CIP. Những năm đầu vào Nhà-trắng, Kennedy rất ít lưu lại nơi đây, Kennedy đợi đến khi bổ nhiệm người em Robert Kennedy làm Bộ trưởng tư pháp, Kennedy mới yên tâm làm việc; Sự thất bại của CIA [Bushes] đổ bộ vào Vịnh con heo làm TT Kennedy nóng giận, sau khi phái Tướng Taylor điều tra, báo cáo CIA đã đi quá xa ngoài trách nhiệm cơ-bản của mình như muốn phá hoại chính sách. Kennedy quyết định CIA bàn-giao quyền lại cho Quân đội nắm giữ, đồng thời giải nhiệm một số tướng lãnh và viên chức, hai viên chức trùm CIA là Allen Dulle và Richard Bissell dấu nhẹm âm mưu đổ bộ lên Cuba nên bị TT Kennedy giải nhiệm liền sau đó cùng Tướng Edwin Walker.
Hai cha con Bush [Prescott Bush và George H W Bush] phản ứng dưới sự đồng thuận của thủ lãnh W.A. Harriman ngấm ngầm thập-tự-chiến với TT Kennedy: cho rằng Kennedy là kẻ chủ bại trong chính sách đối ngoại. Cái ngày buồn thảm của dân Mỹ khi đoàn công xa của TT Kennedy và Ðệ Nhứt phu nhân viếng thăm Dallas, cái nhóm “Tam đầu chế” kể trên đã xúi giục một số người giương biểu ngữ chống Kennedy dọc theo các con lộ mà Kennedy sẽ đi qua, và cũng tại Dallas, họ dùng công cụ truyền thông văn hoá đưa tin thường lệ vào buổi sáng buộc tội Kennedy là kẻ phản bội, kẻ chủ bại. TT Kennedy rất bình tĩnh vì ông nghĩ sẽ giải nghĩa và thuyết phục người dân tại cuộc nói chuyện ở Dallas Trade Mart. Kennedy sẽ chứng minh sức mạnh của Hoa kỳ không phải chỉ hù-dọa kẻ thù mà chứng minh sự chung sống hòa bình trên căn bản dân chủ và tự do qua sự bảo đảm bằng cơ pháp quốc tế. Nhưng cuộc nói chuyện định mệnh đó đã không xảy ra vì TT Kennedy đã bị ám sát.
Nhưng than ôi! Cái thế lực ghê-gớm bằng 1000 Mafia nầy lại dám táo-bạo mướn công-cụ Mafia một lần nữa để giết một tổng thống; Người em, Robert Kennedy đang tự-động trở nên huyền thoại về điều tra vụ án lớn nhứt của lịch sử Hoa kỳ. Trong quá khứ, sau thế chiến-2, William Colby, Allen Dulles cũng như Richard Bissell dưới quyền OSS của Tướng William J Donovan; Những phần tử Cộng sản cũng như thiên tả nếu thao túng chính quyền Tây âu đều bị nhóm phản tình báo trên thuê mướn Mafia thanh toán ngay lập tức. Ðiều dễ hiểu nếu Mafia tự ý làm thì không thể tránh khỏi sự trả đũa mà bọn Mafia thừa hiểu sẽ bị tận tuyệt: Chỉ riêng ở Toà đại sứ Stockholm, W. Colby là một viên chức tầm thường nhưng cũng đã chi tiêu hàng trăm triệu dollar để bảo vệ nền dân chủ thiên chúa giáo Ý đại lợi. Nói cách khác, Bố già Prescott Bush là “đại-ca” của Mafia qua đơn đặt hàng từ OSS và CIA và giờ đây Bố-già láo-cá nầy đã dùng Mafia để ám sát Kennedy tránh hệ quả gây mâu-thuẫn, xung đột giữa CIA và FBI.
Hơn 40 năm qua, người dân Mỹ tin rằng vụ thảm sát TT Kennedy không riêng gì chỉ có một mình Oswald là thủ phạm, mà đó là một âm mưu vô cùng bí mật, nhưng cũng phải đợi khi bọn Skull and Bones bị hủy diệt hoàn toàn thì mọi việc sẽ hiện rõ ra dưới ánh sáng mặt trời. Người em, Robert Kennedy phải làm cho ra lẽ qua những ngày đêm âu sầu thầm lặng điều tra, cho đến khi nào Robert Kennedy tìm ra manh mối thì một lần nữa chúng sẽ phải tiêu diệt ông để bịt đầu mối; R.Kennedy vừa vật lộn với sự đau buồn vừa nóng ruột tìm ra manh mối góp nhặt mọi chi tiết dù lớn nhỏ. R.kennedy đeo sát thi hài người anh cho đến tận nhà thương Hải quân Bethesda, nơi đây R.Kennedy chú tâm tìm những chứng cớ y khoa, đặc biệt chú tâm về bộ óc bị trúng đạn của TT Kennedy. Ông quyết tâm phải trở thành một lý thuyết gia hùng biện về cái chết của người anh mình. Nhưng viên đạn khắc nghiệt lại tái diễn y chang số phận của người anh, ngay sau khi R.Kennedy tìm ra 3 mẩu đạn khác nhau nằm trong đầu của người anh mình.
Robert Kennedy được nhiều cảm tình với dân Mỹ, 1964 ông được bầu làm Thượng nghị sỉ tiểu bang New-York và rồi ra tranh cử Tổng thống 1968. Ông vẫn tiếp tục âm thầm điều tra về cái chết của TT Kennedy, tin tưởng hoàn toàn khi ông được dân bầu làm tổng thống với ngôi vị quyền lực ông sẽ tái điều tra và đưa chúng ra pháp luật – Nhưng việc đó không xảy ra vì Bọn Skull and Bones lại một lần nữa ra tay trước. Lần thứ nhứt, tam đầu chế [J.F.Kennedy, Robert Kennedy và Lyndon Johnson] củng làm thủ tục giấy tờ cùng chứng cớ để đưa Skull and Bones ra pháp luật qua đạo luật làm ăn với kẻ thù: “Aid to Russia 1941-46 Plan” [Trading with Enemy-Act 1941] Nhưng Ðảng Ma-quỷ nầy lại ra tay trước. Ðảng Skull and Bones phản-ứng theo luật Cowboy Texas shoot rất nhanh rất chính xác và đúng lúc!
Giả thuyết về cuộc thảm sát TT Kennedy:
Quốc hội lúc nầy đang chịu ảnh hưởng của Prescott Bush về mặt chìm còn mặt nổi là Mike Mansfield cho thành lập một ủy ban điều tra rồi đi đến kết luận Oswald là thủ phạm. Cái trường hợp nầy được xếp hồ sơ vì lý do: Oswald cũng bị giết bởi băng-đảng tại một hộp đêm ở Dallas. Cảnh sát Liên bang không thể tiếp tục điều tra vì người chết đã bịt đầu mối (dead men tell no tales). Nhưng sau hai thập niên, xuất hiện một Toán chuyên viên điều tra do ông William Tobin, thuộc phòng nghiên cứu điều tra của FBI làm trưởng đoàn. Ông nắm vững những phương tiện điều tra chính xác qua thủ tục vận hành hóa phân tích điện tử chuyên trách về các mảnh đầu đạn; William Tobin đi đến kết luận hơn 40 năm qua, Quốc hội đã cho điều tra bằng một toán chuyên viên hoàn toàn không biết gì cả hay với mục đích làm sai lạc các vấn đề liên hệ với dụng ý che dấu tính trung thực. Bây giờ Tobin đòi hỏi phải tái điều tra để cho ra ánh sáng, vì Tobin cho rằng sau cuộc nghiên cứu hi-teck đã tìm thấy ít nhứt ba mảnh đạn khác loại trong đầu của TT Kennedy (Tobin’s in vestigators found being at lest three bullet-fragments were different categories). Toán điều tra nầy đi đến kết luận có thêm một người bắn sẻ nữa ngoài Lee Harvey Oswald, cùng trên lầu 5 bắn xuống. Nhưng chưa tìm ra hung thủ thứ hai thì hai ngày sau Oswald bị bắn chết để bịt đầu mối. Siêu thế lực trong bóng tối áp lực FBI phải đóng lại hồ sơ vì thủ phạm đã bị giết.
Ðây là nguyên tắc cơ-bản của bọn Siêu Mafia như trường hợp của TT Diệm: Ðại úy Nhung bị xiết cổ chết sau vài ngày TT Diệm bị thảm sát, nhưng không chỉ có một mình Nhung là hung thủ. Vì bố-già Mafia [Prescott Bush] đã chỉ thị đường dây thứ nhứt cho Ðại-sứ Lodge qua đặc trách hành quân Lucien Conein [Tướng Dương văn Minh và đại úy Nhung] và đường dây thứ hai cho Trưởng nhiệm sở CIA Saigon David Smith qua Russell Flynn Miller [Tướng Mai Hữu Xuân và Th/tá Dương Hiếu Nghĩa] Thật bất hạnh cho giòng họ Ngô, nếu TT Diệm và người em vẫn ở yên nơi Dinh Gia Long thì thảm trạng sẽ không phải xảy ra theo như tôi suy-gẫm. Vì đối với siêu thế lực nầy thì sự loại bỏ Cụ Diệm ra khỏi cơ quan quyền lực không khó lắm, chỉ riêng sự cương-định của TT Kennedy phải bị thảm sát để quyền lợi của họ không bị ngăn cản.
Thế thì thủ phạm thứ hai là ai!? Âu châu và nhứt là Pháp là trung tâm văn hóa nên bất cứ sự kiện quan trọng nào cũng thường thả bóng bóng tại Paris, do ngân quỷ chi tiêu xuất ra từ Ngân hàng Thụy-Sỉ trả tiền cho những dịch vụ mờ ám của Skull and Bones: Ðiển hình tuần báo Paris Match muốn vinh danh Hồ Chí Minh để bù lại sự phản bội của Skull and Bones, như đặt tên Ðường Mòn tên ông [Hà Nội đặt tên là Ðường 559] Ðặc biệt cựu tù binh bị Hà-Nội hành hạ tàn nhẫn nhứt là Thượng nghị sĩ John McCain, không những không thù Hà Nội là vì quyền lợi “American-First” mà còn phải làm sáng tỏ “định-kiến-1”. Ngày 25/4/2.005, báo Paris Match có đăng bài phỏng vấn John McCain, trước câu hỏi về sự khác biệt giữa Việt Nam và Iraq, ông đã tuyên bố (vì được SCP sẽ tài trợ và ủng-hộ để tranh ghế tổng thống trong tương lai y chang lời hứa với Ðại sứ Cabot Lodge) như những gì đã giải nghĩa trước cuộc chiến VN 1960 tại các khuôn viên Ðại học, “Người dân Miền Nam trước đây chưa hề bao giờ cho rằng chính phủ Saigon là hợp pháp. Họ hiểu rằng HCM là người “quốc gia” muốn thống nhất đất nước; Còn tại Iraq, các cuộc bầu cử cho thấy dân Iraq tin là chính phủ của họ là hợp pháp!” [Ðịnh kiền-1, SCP Mỹ không công nhận VNCH vì muốn thành lập một nước VNCH thống nhứt lớn hơn trong tương lai, sau một thời gian khai thác qua chiến tranh, còn Iraq sẽ được họ tái thiết và xây dựng một hiến pháp theo ý họ như mẩu hình các nước trong khối Á-Rạp]
Thêm trường hợp phải đánh lạc hướng hay để trả mối thù thâm độc về câu nói mà Phó TT Johnson nói với Thượng nghị sĩ Humphrey, ám chỉ sự thảm sát TT Diệm có dính dấp đến W.A Harriman, thủ lãnh của Skull and Bones. Ngụy tạo 40 năm trước Lyndon B Johnson ra lệnh giết Kennedy!? Bây giờ bỗng nhiên xuất hiện một nhân vật kinh-dị, ông Billie Sol Estes 78 tuổi một thời là triệu phú cho rằng cái gọi là TT Johnson đã ra lệnh cho thuộc hạ giết TT Kennedy để thay thế ngôi vị! Với nguyên-cớ [trong khi Johnson đã về với chúa] cuộn băng ghi lời tố cáo trên vẫn còn được Sol Estes cất giấu kín? Làm sao người như ông Estes lại có được chìa khóa của một bí mật lớn nhất của thế kỷ? Billie Sol Estes xuất hiện cũng tại Pháp như đồng tác giả của một cuốn sách vừa được nhà sách Flammarion xuất bản nguyên bản bằng tiếng Pháp tại Paris nhan đề là “JFK, le dernier témoin” với nhà báo William Reymond, và tiếp theo là một cuốn phim trên Ðài Canal [đài ra tin Vịt-Cồ] với nhan đề “JFK, autopsie đun complot” của Bernard Nicolas và William Reymond trình chiếu tối thứ hai 27/10.
Billie Sol Estes bị tù, sạt nghiệp, bị mọi người bỏ rơi vào quên lãng, 1971, khi vừa ra khỏi tù, Estes gặp Cliff Carter, người thân cận nhứt của cựu TT Johnson yêu cầu ông Estes lấy máy ghi lời của ông ta trong đó có câu: “Lyndon Johnson đáng ra không nên ra lệnh cho Mac giết Tổng thống?” Theo như Estes, Mac ở đây là Mac Wallace, xạ thủ của phe nhóm Johnson ? (cái thế lực ghê gớm nầy thật chuyên nghiệp về ngụy tạo vấn đề qua chuyên môn ranh mảnh về Tình báo cả bốn đời từ 1917-2004) Trong vụ ám sát TT Kennedy, ngay trên lầu thứ 5 nơi Lee Harvey Oswald đặt súng, FBI đã tìm thấy một dấu tay… vô thừa nhận. Năm 1988, Nathan Darby, một giám định viên chuyên về căn cước tư pháp, sau khi so sánh, xác nhận rằng dấu tay nầy là của Mac Wallace. Với thêm vào những chứng cớ đó, chúng ta có thể tin rằng William Tobin ngày nay cho rằng Mac Wallace là hung thủ thứ hai. Nhưng mọi việc sẽ được đưa ra ánh sáng sau năm 2.023, [khi Thái tử của triều đại thứ hai Skull and Bones chết, George W Bush] Thủ phạm theo tôi nghĩ là Nhóm tài phiệt “dầu hỏa và buôn súng” do tam-đầu-chế (Prescott Bush, W.A.Harriman, và George H.W.Bush thành viên của War Industries Board) đã giết TT Kennedy bằng bàn tay của Mafia.
TT Kennedy phải bị thanh toán? 
Trong lịch sử thế giới hiện đại, chưa có một sự kiện nào chà đạp nền chính trị dân chủ một cách trắng trợn và lộ liễu như vụ ám sát tổng thống Kennedy; Trong thời gian ngắn ngủi kể từ khi Kennedy bị ám sát, 18 nhân chứng quan trọng lần lượt giã từ cuộc sống, trong đó 6 người bị bắn chết, 3 người tử vong trong tai nạn giao thông, 2 người tự sát, 1 người bị cắt cổ, 1 người bị vặn gãy cổ, 5 người đột tử. Một nhà toán học người Anh đã viết trên tờ Sunday Times rằng, xác suất của những việc trùng hợp này là rất thấp.
Từ năm 1963 đến năm 1993, 115 nhân chứng quan trọng hoặc tự sát hoặc bị mưu sát một cách kinh-dị vì đã dám cả gan tiết lộ sự thật tàn bạo nầy. Gần đây một điệp viên tài ba William E Colby bị chết một cách bí mật trên bờ sông Potamac sau 8 ngày tìm kiếp, nhưng đi chơi thuyền không mang phao, bị đột quỵ nhưng lại nhảy xuống sông không mang phao?
Sự phối hợp và tổ chức vụ việc với quy mô lớn, việc thủ tiêu chứng cớ và nhân chứng rõ ràng cho thấy sự việc Kennedy bị ám sát không còn là một cuộc mưu sát bí mật mà đã trở thành một cuộc hành quyết công khai theo thời gian tự nó lộ ra với vô vàn chứng cớ. Nói thẳng ra đây là một cuộc dằn mặt các tổng thống Mỹ cho thấy rõ ai là người chủ thực sự của nước Mỹ? Bọn Skull and Bones phần nhiều là thành viên cũa tổ-chức “War Industries Board” với âm mưu thống lãnh thế giới bằng: nắm giữ nhân công rẻ mạt, tóm thâu tài nguyên trái đất, bằng đồng dollar Xanh làm căn bản tiền tệ, mà nói nôm-na là đầu não: Wall-Street.
Thông thường, nếu như một tổng thống Mỹ từ trần trong thời gian tại nhiệm, “dư luận” sẽ cho rằng đó là cái chết “tự nhiên”. Nếu tổng thống bị giết trước mắt công chúng, “dư luận” sẽ cho rằng “hung thủ là một tên tâm-thần”. Nếu có được vài hung thủ chịu án, thì dư luận sẽ cho rằng “các hung thủ là những tên tâm thần chẳng quen biết nhau”. Nếu có ai tỏ ý nghi ngờ thì người đó sẽ bị cười chê là “kẻ theo thuyết âm mưu”. Chỉ có điều, âm mưu ám sát tổng thống Kennedy quá lộ liễu, và chỉ cần có trí lực suy-diễn bình thường thì bất cứ ai cũng sẽ chẳng thể tin nổi vào kết luận của cơ quan chức năng đương nhiệm. Trong tình huống này, việc cố ý dẫn dắt và đánh lạc hướng dư luận chính là cách thức tốt nhất. Vậy là hơn 47 năm nay, các giả thuyết âm mưu không ngừng được thêu dệt, còn âm mưu thực sự thì đã được che giấu kín như bưng trong một thời gian khá lâu.
Thứ mà hình sự học nghiên cứu là chứng cớ, không có chứng cớ thì không thể rút ra kết luận; Trong hơn 40 năm nay, tất cả nhân chứng và các chứng cớ có liên quan đến cái chết của Kennedy đều bị bịt kín, người ta sẽ mãi mãi không thể có được chứng cớ chính xác để xác định rốt cuộc ai là hung thủ thực sự. Nhưng tâm lý học tội phạm lại có thể xuất phát từ một góc độ khác, như nghiên cứu động cơ gây án - từ đó mà khai thông bế tắc để tìm ra chân tướng vụ việc (Trích một đoạn trong bài tiếng Anh của tôi: In the Chapter 3, I had justified with some evidences, “welfare imperialism,” in on behalf Harriman was the U.S policymaker, he said “With the passage of time, our objectives (CIP) in Vietnam will become more and more difficult to achieve with Diem in control and JFKennedy on the seat of power as well (President Johnson’s confession in the assassination of Diem could indicate some complicity on Harriman by 4/7 page http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman)
Sắc lệnh Tổng thống số 11110: Giấy chứng tử của Kennedy
Đối với người dân Mỹ, ngày 22 tháng 11 năm 1963 là một ngày không bình thường: Tổng thống Kennedy bị ám sát tại phố Dallas bang Texas. Tin dữ loan đi, toàn nước Mỹ rơi vào nỗi kinh hãi và bi thương. Mấy chục năm sau, khi nhắc đến thời khắc này, rất nhiều người vẫn còn nhớ chính xác mình đã làm gì khi đó! Rốt cuộc ai là kẻ ám sát tổng thống? Tại sao kẻ đó lại ám sát tổng thống? Câu hỏi đó cho đến nay vẫn là điều bí mật được mọi người bàn tán; Kết luận cuối cùng của ủy ban Warren thuộc chính phủ Mỹ cho rằng, đây là một vụ án đơn độc của một tên hung thủ có tên là Oswald? Nhưng những điểm nghi vấn của vụ án này quả thực là rất nhiều, và cho đến ngày nay, trong xã hội vẫn lưu truyền nhiều giả thuyết về các âm mưu ám sát tổng thống.
Trong số các giả thuyết này, điểm nghi vấn rõ ràng nhất là hung thủ đã thoát khỏi sự truy đuổi của cảnh sát trong 48 giờ và đã bị một tên sát thủ gốc Do Thái khác bắn chết ở cự ly gần trước sự chứng kiến của công chúng. Hàng triệu người đã chứng kiến toàn bộ quá trình mưu sát qua truyền hình, và động cơ của tên hung thủ này là “muốn thể hiện lòng can đảm của người Do Thái trước toàn thế giới?” có phải thật sự là vậy không?
Một điểm nghi vấn rất lớn khác là, rốt cuộc có bao nhiêu người đã tham gia vụ mưu sát tổng thống Kennedy; Kết luận của ủy ban Warren là trong thời gian 5-6 giây, sát thủ đã bắn liên tiếp ba phát đạn, trong đó một phát trật mục tiêu, phát tiếp theo trúng cổ và phát cuối cùng trúng đầu nạn nhân. Nhưng lại trong đầu của TT Kennedy có vài loại đạn khác nhau do người em Robert Kennedy tìm thấy tại nhà thương, đó cũng là lý do thêm một mạng người chết nữa để phi tang. (Xin xem phần Anh nguư ở mục “Why President Kennedy must be assassinated?”)
Chẳng ai tin được tên hung thủ lại có thể bắn chính xác trong trời gian ngắn như vậy, điều kỳ lạ hơn là viên đạn bắn trúng cổ tổng thống lại tiếp tục xuyên vào vị thống đốc tiểu bang ngồi phía trước tổng thống, mà tỉ lệ này thì hầu như là bằng không, cho nên người ta gọi đó là “phát đạn thần bí”. Rất nhiều chuyên gia tin rằng, ít nhất không chỉ có một người bắn tổng thống từ một hướng, và số lần bắn không chỉ dừng lại ở ba phát đạn.
Theo hồi ức của một cảnh sát lái xe bảo vệ Tổng thống Kennedy (Chúng ta không nên hoàn toàn tin vào sự việc mà ông cảnh sát nầy tiết lộ… Vì đây là câu chuyện dựng lên để Permanent Government trả thù chính trị bởi câu nầy của Phó TT Johnson với Thượng Nghị-Sĩ Hubert Humphrey sau trở nên phó T.T cho Johnson kể lại: “Tân T.T Johnson đã chỉ cho ông bức ảnh của T.T Ngô-Đình-Diệm treo trên tường nhà, ông phàn nàn trong sự cay đắng: “Chúng ta đã nhúng tay vào vụ giết ông nầy… bây giờ việc ấy đã xảy ra tại đây!”). Người Cảnh sát tiếp: “Khi tổng thống đang bắt tay những người dân đứng chào đón ông ở phi trường, một đặc vụ của Phó tổng thống Johnson bước đến ra lệnh cho chúng tôi làm công tác an ninh. Điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là những người này báo cho chúng tôi rằng tổng thống đã thay đổi lộ trình khi sắp vào quảng trường Deli, (đây cũng là một âm mưu ám-chỉ cáo buộc ông phó Johnson). Nếu như lộ trình ban đầu được giữ nguyên thì sát thủ có thể không có cơ hội ra tay. Họ còn đưa ra cho chúng tôi một mệnh lệnh chưa từng nghe thấy, vì trong tình huống thông thường, bốn chiếc mô-tô hộ tống của chúng tôi phải theo sát bốn phía xe của tổng thống, nhưng lần này, họ ra lệnh cho tất cả chúng tôi chạy theo phía sau xe, trong bất cứ tình huống nào cũng không được vượt qua bánh xe sau của xe Tổng thống đang ngồi (Ý họ muốn ám-chỉ ông Phó muốn giết ông Trưởng để lên ngôi). Họ nói rằng, sở dĩ phải làm như vậy là để cho “tầm nhìn của mọi người không bị che khuất?”… Một người bạn khác của tôi (là vệ sĩ của Phó tổng thống Johnson) kể rằng, trong khoảng 30 hay 40 giây trước khi nghe thấy phát đạn thứ nhất, Johnson đã khom người xuống trong xe, thậm chí trước khi đoàn xe rẽ sang đại lộ Houston (Họ vẫn có thừa khả năng để dựng lên cảnh Johnson khom người xuống trong phim nhưng tại sao lại không) Có thể ông ta đang tìm gì đó trên thảm lót xe, nhưng có vẻ như ông ta đã dự cảm được sẽ có viên đạn bay qua vậy? (Bọn âm mưu sát nhân dựng chuyện thật tài tình đã thành công vì có nhiều người cho rằng Johnson là thủ phạm, kể cả dựng đứng câu chuyện tại thủ đô ánh sáng Paris qua quỹ đen nơi ngân hàng Thụy-sĩ, kể cả báo chí Việt hải ngoại cũng đã lầm tưởng Johnson là thủ phạm)
Xuống phi trường Washington trên một chuyên phi-cơ, đệ nhất phu nhân Jacqueline vẫn mặc chiếc áo choàng thấm đẫm máu của Kennedy; Bà tỏ ra kiên trì như vậy chính là để cho “lũ giết người thấy được tội ác mà chúng “phạm phải” Đó cũng là lý do bà tái giá để làm nhục bọn tài-phiệt ác ôn trong nước Mỹ, nhưng chắc chắn không phải là tài-phiệt Mỹ mà nhà tỉ phú Onassis.
Tên hung thủ Oswald lúc này vẫn bị cảnh sát giam giữ. “Chúng” mà Jacqueline nói đến ở đây là những ai? Trong di chúc của mình, Jacqueline đã nói rằng, trong vòng 50 năm sau khi bà qua đời (ngày 19 tháng 5 năm 2004) nếu đứa con trai út của bà tạ thế, bà sẽ ủy quyền cho thư viện Kennedy công bố một phần 500 trang tài liệu liên quan đến Kennedy. Điều khiến bà không thể ngờ được rằng, đứa con trai út của bà đã mất mạng trong một tai nạn máy bay năm 1999.
Năm 1968, Robert Kennedy - em trai của cố Tổng thống Kennedy, người giữ vai trò quan trọng trong việc vận động dân quyền - ngay sau khi được đề bạt vào vị trí ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ, gần như nắm chắc cơ hội thắng lợi, trong một buổi tiệc mừng thắng lợi, bất ngờ trúng đạn lạc và chết ngay giữa đại sảnh.
Có phải nước Mỹ lãnh đạo bằng một siêu Mafia toàn trị? (Totalitarianism) mà năm 1970, Jane Fonda ca ngợi trước 2000 sinh viên tại đại học Michigan, ám-chỉ thể chế Siêu-Cộng-Sản, cho đến nay vị tổng thống con-nít phải tuyên bố bà là một trong 100 phụ-nữ danh tiếng? do siêu quyền lực sau hậu trường cũng như phục hồi danh dự trả lại 4 sao cho Tư Lệnh 7th Không Lực Mỹ, tướng Lavelle bị lột lon còn 2 sao.
Trong khoảng thời gian ba năm ngắn ngủi sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát, 18 nhân chứng quan trọng lần lượt tử vong, trong số đó có 6 người bị bắn chết, 3 người chết vì tai nạn xe hơi, 2 người tự sát, 1 người bị cắt cổ, 1 người bị vặn gãy cổ, 5 người đột tử. Từ năm 1963 đến năm 1993, 115 nhân chứng liên quan đến các vụ việc ly kỳ này đã tự sát hoặc bị mưu sát 121 vẫn còn rất nhiều tài liệu, hồ sơ và chứng cớ được ủy ban Warren giữ kín khiến người ta sinh nghi và theo luật thì mãi đến năm 2023 (50 năm người lính Mỹ rời VN) mới được công bố. Đây là những tài liệu liên quan đến các tổ chức như CIA, FBI, chuyên viên bảo vệ tổng thống, Cục an ninh quốc gia (NSA) Bộ ngoại giao, những nhân vật chóp bu của ngành Marine. Ngoài ra, FBI và các tổ chức chính phủ khác cũng bị nghi ngờ có dính líu đến việc hủy hoại chứng cớ; Nhưng sự thật bọn nầy đã có kinh nghiệm thuê mướn bọ Mafia Ý để ám sát những nhà chính trị thân hoặc là Cộng Sản sau thế chiến 2 tại Âu Châu. Giờ đây lại một lần nữa thuê mướn Mafia thi hành nên đã ngăn ngừa sự mâu thuẩ64n, xung đột giữa hai cơ quan CIA và FBI tại Mỹ.
Tính đến năm 2003, tức là 40 năm sau ngày Kennedy bị ám sát, hãng truyền thông ABC của Mỹ đã thực hiện một cuộc điều tra độc lập, 70% người dân Mỹ cho rằng việc ám sát tổng thống Kennedy là một âm mưu có quy mô rất lớn. . (Tobin’s investigators found out being at lest three bullet-fragments were different categories. They come to conclude that having a second suspect engaged this crime, and shot in the same moment in one precise target (Kennedy). Việc điều phối và tổ chức ám sát có quy mô lớn như vậy việc ém nhẹm chứng cớ và nhân chứng cho thấy rõ rằng, sự kiện ám sát tổng thống Kennedy đã không còn là một cuộc mưu sát bí mật nữa, mà giống với một cuộc hành quyết công khai nhiều hơn hòng dằn mặt các tổng thống Mỹ với một thông điệp: “Các vị tổng thống cần phải biết rằng ai mới là chúa tể thật sự của đất nước này”. (Suy diễn trong các tài liệu hé mở cho chúng ta biết đó là Permanent Government sáng lập 1920 bởi thủ lãnh William Averell Harriman và thành viên Skull and Bones, Prescott Bush là chủ tịch War Industries Board, đây là lò thuốc súng và là mầm móng gây thảm hoạ cho loài người. Họ có thừa khả năng huyền biến chân lý thành vô nghĩa làm kinh dị đảo lộn tầm hiểu biết con người, như biến da màu thắng da trắng; vô danh tiểu tốt thắng người có tiếng vang trên chính trường: biến người nghèo thắng người giàu; TNS thiếu niên thắng thâm niên: người chưa bao giờ ở Bạch Ốc lại vào Bạch Ốc: tiểu bang nhỏ thắng tiểu bang New York … điển hình Thái-tử Bush Con được hưởng quyền tự ân-xá dù vi phạm hiến-quyền gây chiến Power Act và lừa gạt Quốc Hội cùng nhân dân Mỹ về vụ Iraq , nhưng Nixon thì không được dù chỉ lỗi nhỏ nghe lén Watergate?
(Tại nhà thương Bethesda Naval Hospital, Robert Kennedy phát hiện nhiều loại đạn khác nhau đang còn trong óc của người anh: Bốn thập niên sau, Tobin’s investigators found out being at lest three bullet-fragments were different categories. They come to conclude that having a second suspect engaged this crime, and shot in the same moment in one precise target (Kennedy)
Vấn đề là, gia tộc Kennedy cũng là dòng họ thân thuộc của các tập đoàn ngân hàng quốc tế; Joseph Kennedy - cha của Kennedy - chính là một đại gia phát tài trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929, sau này được tổng thống Roosevelt bổ nhiệm vào chức Chủ tịch ủy ban Giao dịch chứng khoán (SEC) Mỹ. Trước đó, trong thập niên 40, Joseph Kennedy đã được xếp vào hàng ngũ những người giàu nhất nước Mỹ. Nếu không phải là con trai của một đại gia giàu có như vậy, Kennedy khó có thể trở thành tổng thống theo tín ngưỡng Thiên Chúa giáo đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Vậy Kennedy đã làm gì nên tội với tầng lớp ưu tú thống trị kia để đến nỗi bị giết hại dã man như thế? Tại vì ông là Đế-Vương của Hoà Bình! không muốn Mỹ làm giàu bằng món hàng giết người!
Kennedy là một nhân vật tài năng với hoài bảo lớn, ông đã ngồi vào chiếc ghế tổng thống khi tuổi đời còn rất trẻ; Trong vụ khủng hoảng Hoả-tiễn lậu vào Cuba, ông đã biểu lộ sự kiên định, thái độ dứt khoát rõ ràng, thậm chí ông tỏ thái độ sẵn sàng đối mặt với nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân với Liên Xô. Cuối cùng, Kennedy đã buộc Nikita Sergeiveich Khrusev phải nhượng bộ.
Kennedy còn tích cực thúc đẩy kế hoạch chinh phục không gian của Mỹ và biến nước này trở thành quốc gia đầu tiên đưa người lên mặt trăng; Cho dù không thể tận mắt chứng kiến thời khắc vĩ đại đó, nhưng Kennedy có một sức lôi cuốn mầu-nhiệm và nó đồng hành cùng tất cả dân chúng Mỹ trong toàn bộ kế hoạch. Ở phương diện vận động thúc đẩy dân quyền, gia tộc Kennedy đã có công sức đóng góp rất lớn như sau: Năm 1962, một sinh viên da đen muốn đăng ký vào trường Đại học Mississippi và gây nên sự phản đối kịch liệt của người da trắng; Lúc này, tất cả mọi ánh mắt của người dân Mỹ đều đổ dồn vào tổng thống Kennedy; Họ muốn chứng kiến cách thức mà Tổng thống giải quyết mâu thuẫn này ra sao. Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều động 400 nhân viên chấp pháp liên bang và đội cảnh sát 3.000 người để hộ tống người sinh viên da đen này đến trường học. Hành động này đã làm chấn động cả xã hội Mỹ và ngay lập tức Kennedy nhận được sự mến mộ của người dân, Dưới sự hiệu triệu của ông, các thanh niên Mỹ đã nô nức tham gia đội quân hoà bình, tình nguyện đi đến các nước thuộc thế giới thứ ba để hỗ trợ phát triển giáo dục, y tế và nông nghiệp. “Hởi thành niên … các bạn hãy làm những gì cho đất nước, đừng đòi hỏi đất nước phải làm những gì cho mình”
Trong thời gian ba năm nắm quyền ngắn ngủi, tổng thống Kennedy đã tạo nên những điều kỳ diệu trong xã hội; Với hoài bảo lớn và ý chí quyết đoán cộng thêm sự mến mộ của người dân Mỹ cũng như sự kính trọng của các nước trên thế giới, không lẽ Kennedy lại chịu làm một nhân vật bù nhìn cho lũ Skull and Bones sao? Một khi muốn thực hiện những điều tốt đẹp cho xã hội và nhân dân, chắc chắn Kennedy sẽ buộc phải đối đầu với những kẻ thống trị ngang ngược ích-kỷ vô hình sau lưng; Khi mâu thuẫn về chính sách đối ngoại và quyền phát hành tiền tệ lên đến đỉnh điểm thì có lẽ Kennedy cũng không thể biết rằng, vận đen của ông đã đến thời điểm giải quyết bằng máu. Vì thật ra chính tam đầu chế (Bộ trưởng Tư Pháp, Phó tổng thống, và chính Kennedy) đang làm thủ tục lôi bọn chúng ra toà vì làm ăn mua bán đổi chác với kẻ thù bằng hiến luật cấm “Trading with the Enemy 1941” (http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman, page 5/7) Nên bọn nầy không còn con đường nào khác phải lấy luật giang hồ Cow-boy Texas ra giải quyết.
Bush-Con bảo vệ danh-dự cho Bush ông-nội và cha:
(The USA PATRIOT Act (commonly known as the "Patriot Act") is an Act of the U.S. Congress that was signed into law by President George W. Bush on October 26, 2001. The title of the Act is a contrived three letter initialism (USA) preceding a seven letter acronym (PATRIOT), which in combination stand for Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct …) để giải nghĩa cho công luận, những ai vì yêu tổ quốc có thể làm bất cứ những gì, dù thiệt hại hoặc triệt tiêu những nguyên thủ trong hoặc ngoài nước miễn đem lại cho đất nước Hoa Kỳ một sự hùng cường trong ngôi vị cao chót vót trên thế giới là được xác định “tình yêu tổ quốc” Patriot-Act.
Ðể bảo vệ lập trường của “tam đầu chế” (Prescott Bush, George H W Bush và W A Harriman) thủ phạm gây ra các vụ thảm sát, vì đả nhúng tay vào sự sát hại 2 anh em Kennedy và Diệm Nhu, Tổng thống thứ 43 (George Bush-Con) tìm đủ mọi cách cho ra “Patriot-Act” ngày 26/10/2001 để cứu lại danh-dự cho Cha, Ông mình khỏi, trong lịch sử Hoa Kỳ, bị quần chúng nguyền rủa.
Trong lịch sử thế giới hiện đại, chưa có một sự kiện nào chà đạp nền chính trị dân chủ một cách trắng trợn và lộ liễu như vụ ám sát tổng thống Kennedy; Trong thời gian ngắn ngủi kể từ khi Kennedy bị ám sát, 18 nhân chứng quan trọng lần lượt giã từ cuộc sống, trong đó 6 người bị bắn chết, 3 người tử vong trong tai nạn giao thông, 2 người tự sát, 1 người bị cắt cổ, 1 người bị vặn gãy cổ, 5 người đột tử. Một nhà toán học người Anh đã viết trên tờ Sunday Times rằng, xác suất của những việc trùng hợp này là rất thấp; Từ năm 1963 đến năm 1993, 115 nhân chứng quan trọng hoặc tự sát hoặc bị mưu sát một cách kinh-dị (nếu tôi viết bài nầy thì tôi cũng bị xơi-tái ngay tức khắc vào thời đó, vì thế 2 tác phẩm “The New Legion” phải in-ấn ngoài nước Mỹ) vì đã dám cả gan tiết lộ sự thật tàn bạo nầy. Gần đây một điệp viên tài ba William E Colby bị chết một cách bí mật trên bờ sông Potamac sau 8 ngày tìm kiếp, nhưng đi chơi thuyền không mang phao, bị đột quỵ nhưng lại nhảy xuống sông không mang phao?
 Có những nguyên cớ mà người dân vẫn nghi ngờ rằng CIA có dính líu trong vụ ám sát TT Kennedy và cũng theo nhiều nguồn tin có dẫn chứng, Woodward, phóng viên Washington Post, lần đầu gặp ‘Deep Throat’ vài giờ có nghĩa là với Colby, có nhiều nguồn tin dẫn chứng có nhiều cuộc họp mật dưới hầm của Parking. Vì thế sự mất tích của Colby đem đến nhiều huyền thoại mà người đời thích bàn luận; Khi Colby bất chợt mất tích trên một phụ lưu Sông Potamac, tới những 9 ngày sau mới tìm được xác. Có điều hơi lạ là Colby bị cơn đau Tim bất-thần nhưng không chịu ngã xuống ngay trong Canoe mà lại nhảy tũm ra ngoài sông để chết đuối. Vì thế một viễn tượng cho thấy rằng sự đánh giá của Woodward đã cho người đời một nghi vấn có giá trị, Colby là ‘Deep-Throat’!? Bà quả phụ Sally Shelton-Colby, một viên chức cao cấp trong cơ quan phát triển Quốc-Tế (International Development) cho rằng: “thật là hàm hồ cho chồng tôi là đầu mối chính trong vụ Watergate…”chồng tôi không phải là ‘Deep Troat’ Anh không bao giờ là như vậy!” Xung quanh cái chết của Colby mà cũng có nhiều nguồn tin trái ngược (có một điều chúng ta nên ghi nhận trong chiến tranh VN, Colby không ưa việc làm điệp-viên OSS 19 Conein, Russell Flynn, Mc Namara có nghĩa Conein là người của Geoge H W Bush)
-Nguồn tin thứ 1: Vào thứ hai, May/6, xác Colby được tìm thấy chỉ chưa đầy 20 yards từ chỗ phát hiện chiếc canoe của ông ở vào một vùng mà tìm kiếm qua lại nhiều lần bằng Trực-thăng và các Toán sục sạo ở dưới đất. Điều đáng ghi nhận là xác chết của Ông không có mang phao; Nhưng theo lời Bà vợ thì Colby luôn-luôn mang phao khi xuống nước. Một người bình thường cũng phải đặt ra nghi vấn
-Cuộc giải phẩu để khám nghiệm ngày 11/May cho thấy rằng: Colby bị chết đuối vì ngạt thở, dường như bị ngã xuống nước khi cơn stroke bộc phát. Khám nghiệm y khoa cho biết ngày thứ Friday là như vậy
-Xác Colby được tìm thấy ngày Monday, sau 8 ngày tìm kiếm gồm Trực-thăng, thợ-lặn, Chó săn, trang cụ Sonar, Colby mất tích ngày 27/April trong khi vui chơi trên canoe một mình trên giòng Sông thuộc hướng Nam của Maryland, khi phát hiện ra xác của Colby trong vị thế mặt úp xuống trên một vùng đầm lầy, cạnh bờ Sông. Phẩu thuật khám nghiệm cho thấy, Colby bị một cơn bạo phát sơ cứng mạch máu (hardening of the arteries) Trưởng y khoa John Smialek nói như vậy
-Cái chết đột biến và bất ngờ không bình thường, bởi vì Colby đã bị stroke trước khi rơi xuống sông (tại sao không rơi trong lòng canoe mà phải chòi ra ngoài để rơi xuống sông?) Cuộc khám nghiệm đi đến kết luận: chết đuối và bị đông máu, đó là nguyên nhân cái chết của Ông. Lời kết giải của Jeannette A. Duerr, phát ngôn viên của Bộ Y-Tế và vệ-sinh của Maryland (cũng không có gì đặc biệt và mới mẻ)
-Phẫu thuật khám nghiệm cho thấy, Colby đã chết sau khi đã ăn-uống với nồng độ rượu 0.07 phần trăm của rượu (Wine) Người khám nghiệm cho biết: không tìm thấy gì gọi là Drug trong cơ phận của Colby.
Người xưa thường nói: “ác lai ác báo” Colby đã gieo rắc biết bao cảnh chết “bí mật như vậy” trong chiến dịch “Phượng Hoàng” thì bây giờ đến phiên Colby phải lãnh. Nếu phải là nghiệp-quả thì ăn cháo vẫn bị gãy răng!
Sự phối hợp và tổ chức vụ việc với quy mô lớn, việc thủ tiêu chứng cớ và nhân chứng rõ ràng cho thấy sự việc Kennedy bị ám sát không còn là một cuộc mưu sát bí mật mà đã trở thành một cuộc hành quyết công khai theo thời gian tự nó lộ ra với vô vàn chứng cớ. Nói thẳng ra đây là một cuộc dằn mặt các tổng thống Mỹ cho thấy rõ ai là người chủ thực sự của nước Mỹ? Bọn Skull and Bones phần nhiều là thành viên cũa tổ-chức “War Industries Board” với âm mưu thống lảnh thế giới bằng: nắm giữ nhân công rẽ mạt, tóm thâu tài nguyên trái đất, bằng đồng dollar Xanh làm căn bản tiền tệ, mà nói nôm-na là đầu nảo: “Wall-Street”
Chỉ có điều, âm mưu ám sát tổng thống Kennedy quá lộ liễu, và chỉ cần có trí lực suy-diễn bình thường thì bất cứ ai cũng sẽ chẳng thể tin nổi vào kết luận của cơ quan chức năng đương nhiệm. Trong tình huống này, việc cố ý dẫn dắt và đánh lạc hướng dư luận chính là cách thức tốt nhất; Vậy là hơn 48 năm nay, các giả thuyết âm mưu không ngừng được thêu dệt, còn âm mưu thực sự thì đã được che giấu kín như bưng trong một thời gian khá lâu. từ đó mà khai thông bế tắc để tìm ra chân tướng vụ việc (Trích một đoạn trong bài tiếng Anh của tôi: In the Chapter 3, I had justified with some evidences, “welfare imperialism,” in on behalf Harriman was the U.S policymaker, he said “With the passage of time, our objectives (CIP) in Vietnam will become more and more difficult to achieve with Diem in control and J F Kennedy on the seat of power as well (President Johnson’s confession in the assassination of Diem could indicate some complicity on Harriman by 4/7 page http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman) đó là lý do họ không ưa LBJ và buộc ông nhiều tội qua truyền thông báo chí…
Trong số tài liệu tối mật Wikileak, tôi chọn ra vài chứng cớ dính líu vào cuộc chiến VN: Trên trục lộ-đồ Eurasian, tất cả tổng thống Mỹ đều là thay phiên làm tổng quản lý (general manager) TT nào bị đặt vào ống kính là chướng ngại vật đều phải bị “trục-bứng” ra khỏi con lộ nầy như: anh em Kennedy [vì thề tiêu diệt Skull and Bones qua lập lại 1942 Trading With The Enemy Act-1941, xem tài liệu dưới đây], Johnson [không được quyền tái ứng cử kỳ-2 vì đeo đuổi chính sách y chang người tiền nhiệm, có nghiã toa rập với Bộ trưởng Tư Pháp Robert Kennedy tiếp tục triệt tiêu Harriman và Bushes theo hiến luật TWEA) Nixon (Watergate) Reagan [ra lệnh cấm bán lúa mì cho Liên Xô, bồ-tèo partner làm ăn của Permanent Government về Aid to Russia 1941-1946 Plan renewed và reactivated] Nếu Reagan bị ám sát chết, ai lên thế thì biết liền?
Tài liệu internet: Under the World War I era Trading With the Enemy Act. However,... rates established by the infamous Smoot-Hawley Tariff Act of 1930. ... The Trading with the Enemy Act 'any person not an enemy or ally of enemy' who claims an interest in vested property and fails torecover it by ... dùng luật rừng (Harriman cương quyết: “Ði với Bụt mặc áo cà xa đi với ma mặc áo giấy” đó là lý do, sáng lập viên W A Harriman đặt cho cái tên là Skull and Bones 1920 (permanent Government)
Trading With The Enemy Act of 1917 was used by President Kennedy in 1962 to ban virtually all trade and commerce with the Castro regime and also focusing on Bushes. ... 02.03.61 The U.S. government announced it was considering, in the case of Cuba , the enforcement of the Trading with the Enemy Act
http://www.certifiedcubanclaims.org/...rade_enemy.htm
www.hermes-press.com/germany1930.htm -
http://www.rense.com/general40/bushf...ndedhitler.htm -
openjurist.org/…/bank-voor-handel-en-scheepvaart-nv-v-f-ken…
TT Kennedy thi hành đúng hiến pháp, hậu quả phi công anh hùng thời chiến dùng luật Cow Boy Texas, George H W Bush (Bush-Cha) phải ta tay thanh toán JFK killed just days after shutting down Rothschild’s Fed Reserve Apr 19, 2011 ... AFTER 1913 ~ The Glass Steagall Act Enacted By FDR blocked all attempts by ... Well They Turned Another Enemy To Rothschild/Hollywood Media Into A ... Operatives Who's Job Is To Orchestrate Insider Trading Mechanisms.... politicalvelcraft.org/…/jfk-killed-just-days-after-shutting…...
Thế là Skull and Bones cứ phon phon go ahead Oct 3, 2001 ... One of their businesses that violated the TRADING WITH THE ENEMY ACT became what the Halliburton company which Dick Cheney ran until he ...http://www.georgewalkerbush.net/bush...fundedhitler.h
Tác giả: Trương Văn Vinh
PS: Nếu quí bạn muốn nghiên cứu chính tình cuộc chiến thì tạm xem bài “Siêu Chiến Lược Eurasian” trên diễn đàn nầy, tác giả trình bày với ngòi bút của một phi công tình báo gián điệp, đứng trên góc cạnh nhìn soi mói vào trong bức tường Skull and Bones conspiracy đầy bí-hiểm để viết lên từ những chứng từ, chứng tích, và chứng nhân trên căn bản gom góp tất cả dữ kiện data để phối kiểm chứng thành một đáp số trung thực cho sự kiện lịch sử hậu quả rõ ràng mới tiết lộ các Video sự kiện lịch như bạn vừa xem 2012?
QUEEN BEE-ONE

Thursday, April 18, 2019

SỐNG Ở MỸ VÀ NHỮNG NGƯỜI SẮP QUA MỸ ...

Bạn có từng trải...
Cảm ơn người bỏ tâm huyết viết ra bài này❤️
Sống ở Mỹ:
Hãy biết ơn nước Mỹ và ân nhân, những người đã đưa chúng ta đến với vùng đất mới này. Nếu vì một lý do nào đó mà chúng ta cảm thấy không hài lòng với cuộc sống nơi đây, thì hãy dũng cảm quay về.

Bởi vì tiếp tục sống ở đây, nhưng mang tâm trạng buồn chán, chỉ làm hại cho bản thân và gia đình mình mà thôi.
Thiên đường hay địa ngục, tất cả đều xuất phát từ suy nghĩ của chúng ta mà ra, nhưng có một điều không thể chối cãi là chúng ta đang sống ở một nơi mà không phải ai muốn đến cũng có thể được.
Sống ở Mỹ:
Hãy biết quý trọng thời gian của mình và của người khác. Vì vậy, hãy luôn đúng giờ on time tối đa trong tất cả các tình huống diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Tiết kiệm thời gian bằng cách giảm thiểu những suy nghĩ và việc làm tiêu cực…

Sống ở Mỹ:
Đừng trách móc người thân của mình trong thời gian đầu mới sang trong những tình huống phải ở chung nhà, bởi vì nếu thử đặt mình vào trường hợp ngược lại, khi gia đình đang sống ổn định, bỗng có những người khác về nhà mình tạm trú từ một vài tuần cho đến vài tháng, mọi sinh hoạt trong gia đình bị đảo lộn, “độc lập tự do” không còn, chưa nói đến sự khác biệt về văn hóa ứng xử giữa những người mới sang và những người đã sang đây lâu. Một vài tuần thì còn có thể được, nếu kéo dài vài ba tháng mà vẫn bình thường, thì đó là những trường hợp hiếm. Chúng ta nên tự lực cánh sinh, ra riêng là cách tốt nhất, ngoại trừ những trường hợp không thể, do rơi vào những hoàn cảnh cá biệt.

Sống ở Mỹ:
Khi cần sự trợ giúp của người thân, bạn bè thì cứ nói ra, không ai có dư thời giờ để đoán bạn đang cần gì để đưa ra đề nghị trợ giúp trước. Cũng nên thích nghi với sự từ chối khi mình đề nghị sự giúp đỡ, bởi vì ai cũng phải lo cho gia đình của họ trước.

Sống ở Mỹ:
Hãy xác định mục tiêu học hành của con cái và bản thân là trên hết. Nếu ở Mỹ mà không tận hưởng những “lợi ích” của môi trường sống và giáo dục ở đây thì ở đây làm gì. Hãy hình dung một gia đình muốn cho 3 đứa con sang Mỹ du học từ nhỏ thì phải tốn kém bao nhiêu? Đó là chưa nói đến việc cha mẹ không có điều kiện để gần gủi dạy dỗ con những kỹ năng khác ngoài học vấn.

Sống ở Mỹ:
Không có việc xấu, chỉ có những người suy nghĩ về những công việc nào đó xấu thì họ sẽ bị xấu mà thôi.

Sống ở Mỹ:
Hãy chấp nhận sự bất công, vì cuộc sống này làm gì có sự công bằng. Tốt nhất là hãy tập thích nghi với nó.

Sống ở Mỹ:
Hãy tập thích nghi với những tình huống những người Việt sang đây trước coi thường những người mới sang. Người lao động trí thức coi thường những người lao động chân tay, người giàu khinh rẻ người nghèo…Vì suy cho cùng, đã mang dòng máu Việt Nam thì sống ở đâu cũng đều có những nét giống nhau.

Sống ở Mỹ:
Hãy xác định gia đình là trên hết, vì điều này có thể sẽ chống lại cái cảm giác đôi khi bị cô đơn, lạnh lẽo nơi đất khách quê người, dù có hay không có bà con thân thuộc ở nơi đây.

Sống ở Mỹ:
Hãy tránh xa với casino và shopping vô tội vạ, vì hai chứng bệnh này đã lấy đi không biết bao nhiêu tiền của Người Việt chúng ta.

Sống ở Mỹ:
Hãy cân bằng thời gian dành cho công việc và con cái, bởi vì chúng ta sang đây đa số là vì con cái, nếu vì ham tiền quá mà để con cái bị hư hỏng hoặc không được học hành đến nơi đến chốn, là một lỗi lầm mà chúng ta không thể tha thứ cho mình được.

Sống ở Mỹ:
Hãy quên đi quá khứ dù “huy hoàng” hay “tăm tối” khi còn ở Việt Nam. Quá khứ xin hãy để chúng ngủ yên, chúng ta hãy tập trung cho hiện tại và tương lai. Sự dằn vặt hoặc tiếc nuối, chẳng mang đến ích lợi gì cả cho bản thân và gia đình.

Sống ở Mỹ:
Đôi khi cũng nên chấp nhận một vài sự chỉ trích của người thân, bạn bè ở quê nhà, có thể chỉ vì lâu quá không gọi điện thoại hỏi thăm,…, đơn giản là ở Mỹ không có nhiều “tỷ phú thời gian “ như ở Việt Nam.

Sống ở Mỹ:
Đa số có chung công thức: Ở nhờ nhà người bảo lãnh -> Share phòng -> Thuê nhà (apartment) -> Mua nhà riêng. Tùy sự may mắn và thực lực tài chính của mỗi người mà có thể cắt bớt hoặc thêm vào cái vòng xoay này.

Sống ở Mỹ:
Hãy luôn sống dưới mức thu nhập mà mình đang có, bởi vì biết đâu ngày mai chúng ta lại bị mất việc làm.

Sống ở Mỹ:
Đừng đánh giá đồng hương qua chiếc xe đang chạy hay chiếc ví hàng hiệu trên vai, bởi vì đa số đều xuất phát từ việc cà thẻ tín dụng (hoặc vay mượn) trả sau.

Sống ở Mỹ:
Khi đi làm trong ở những nơi đông người Việt, hãy chuẩn bị tinh thần bị “ma cũ ma mới”.

Sống ở Mỹ:
Không xài Creditcard, không vay mượn để build credit score là một sự “mất mát” to lớn, bởi vì khi đã có score tốt, chúng ta có thể mua nhà, xe…với lãi suất thấp, được xài tiền với lãi suất 0% của các công ty phát hành thẻ creditcard.

Sống ở Mỹ:
Không biết lái xe coi như chân bị cụt, không biết giao tiếp tiếng Anh coi như bị mắc bệnh câm điếc. Vì vậy, nên dành thời gian cho việc trau dồi tiếng Anh hàng ngày, thay vì “đầu tư” thời gian vô những thứ vô bổ khác.

Sống ở Mỹ:
Hãy chấp nhận bị những người làm việc chung “đánh giá” về tiếng Anh của mình, về văn hóa giao tiếp của mình, bởi vì dù có giỏi bao nhiêu đi chăng nữa thì tiếng Anh của những người mới qua dưới 10 năm như mình không thề nào được “trôi chảy” như những người sang đây lâu và học hành ở đây được.

Sống ở Mỹ:
Nên biết cái công thức 6M, đó là khoảng dự trữ cần có 6 tháng trả tiền nhà, trong thời gian 6 tháng hưởng tiền thất nghiệp, nếu rơi vào trường hợp không may bị cho laid off.

Sống ở Mỹ :
Hãy đừng đặt trong đầu một chữ ‘sĩ’ to tướng. Khi mới sang đây, hãy chấp nhận làm tất cả mọi việc, miễn sao có thế kiếm được tiền một cách hợp pháp, thực hành giao tiếp tiếng anh, kiếm cơ hội quay về với công việc sở trường của mình.

Sống ở Mỹ:
Học thêm được một từ tiếng Anh, nói thêm được một câu giao tiếp chuẩn giọng Mỹ, đọc được một bài viết, trang sách, viết thêm một dòng email bằng tiếng Mỹ…không thể quy đổi ra tờ $20, $50, $100 mà còn hơn thế nữa. Vì nó sẽ mở ra nhiều cánh cửa với nhiều cơ hội tốt cho chúng ta công việc cũng như khi tìm việc, dạy dỗ con cái, học hành…

Sống ở Mỹ:
Nếu có điều kiện thì nên học lại hoặc học cao hơn nữa, nếu mình không thể học được thì hãy đầu tư tất cả vào việc học hành của con cái, để nhiều năm và nhiều năm sau nữa, khi nhìn lại những gì đã qua và sự trưởng thành của con cái, chúng ta có thể tự hào và mỉm cười: chúng ta đã là một trong những người cha (mẹ) tuyệt vời nhất trên quả đất này!

Monday, April 15, 2019

Cựu Bộ Đội Hồi Chánh Định Cư Diện H.O.


Tác giả: Năng Khiếu
Bài số  5663-20-31469-vb2041519
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westmister. Tham dự Viết về nước Mỹ từ  tháng 8/2015. Đã lần lượt nhận giải Đặc Biệt 2016, giải Danh Dự VVNM 2017 và giải Vinh Danh Tác Phẩm 2018.
***
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 cộng sản thôn tính toàn cõi Việt Nam. Giở trò dối gạt dân, quân miền Nam. Tháng 5/1975 họ kêu gọi các sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa ra trình diện, để đi tù với cái tên “Học tập cải tạo”. Cấp úy thì đem đồ dùng cho mười ngày, cấp tá trở lên thì một tháng. Nhưng thực tế ít nhất cũng vài ba năm, trung bình 6-7 năm hoặc từ 15… 20 năm. Có người đi mút mùa, chết không có ngày về. Còn miền Bắc thì sao? Có bị lừa không? Sau đây tôi xin ghi lại theo lời kể của một sĩ quan cộng sản chiêu hồi năm 1970.
*

Cuối năm 1977 tôi được chuyển từ trại tù “cải tạo” Thành Ông Năm về Gia Ray Long Khánh. Một hôm bố tôi đi thăm và cho biết, tôi có một người anh rể con bà bác là cựu trung úy bộ đội đã hồi chánh, tên là Lê Văn Bá đang bị “học tập” với tôi tại khu B trại Gia Rây này, anh ở tổ nuôi heo.
Trại nuôi heo nằm bên ngoài trại tù ở, nên phải đợi đến lúc đi lao động tôi mới hỏi thăm và gặp được anh. Dáng người anh gầy gầy, vẻ mặt khắc khổ nhưng hiền lành chứ không “ mã tấu răng hô” nên vừa gặp, tôi đã có thiện cảm với anh ngay. Tuy vậy, dẫu là anh em đôi con cô con cậu, nhưng khi tiếp xúc với anh vẫn như còn bức tường vô hình chắn ngang, nên tôi luôn thận trọng. Vì tôi có nghe một số các thành viên Việt cộng, được hưởng quy chế chiêu hồi, sau đó cộng tác với ngành an ninh quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nên sau ngày 30/4/1975 đều bị chế độ mới trừng phạt, có người bị xử tử, một số bị bắt đưa vào các trại tù “cải tạo”, trong số ít những người chiêu hồi này, một thời gian sau biến chất trở thành những điềm chỉ viên cho bọn quản giáo. Nhưng cũng có người chiêu hồi thật tâm dù ở hoàn cảnh nào sống cũng rất tử tế.
Rồi từ đó thỉnh thoảng tôi mới gặp anh, chỉ đôi ba câu hỏi thăm sức khỏe, anh ghé vào tai tôi nói nhỏ:
-Chú biết không? Cái đám cai tù ở đây chúng nó chia làm hai phe, Nam, Bắc ganh tị nhau khiếp lắm, chửi bới nhau hoài vì giành ăn. Anh được phe trong Nam thương hại, cũng bị vạ lây nên bị kỷ luật, may mà không bị đem ra Bắc nhốt. Vì có thằng quản giáo nó biết anh là chiêu hồi mà ở ngoài Bắc có học chín tháng sơ cấp về thú y, nên nó đề nghị cho anh làm tổ trưởng nuôi heo. Anh phụ trách chăm khoảng bốn năm chục con heo nái, cả hàng trăm con heo thịt, cực lắm. Nuôi bằng thực phẩm lấy ở Thủ Đức về.
Sau sáu năm lao động cật lực, tôi tốt nghiệp “Học tập cải tạo” thì ra trường. Anh cũng được thả sau tôi một năm, về quê vợ ở xứ Bạch Lâm Gia Kiệm, tại đó anh đã trải qua một cuộc sống khó khăn, như nhiều người lúc bấy giờ, còn tôi ở Hốc Môn nên ít có dịp gặp nhau.
Mãi đến đầu thập niên 1990, anh về Saigon nộp giấy tờ đi xuất cảnh diện HO. Tiện dịp anh hay ghé vào nhà thăm tôi. Anh rất lo trường hợp cựu tù nhân chiêu hồi như anh, sợ lúc phỏng vấn phái đoàn Mỹ sẽ đánh rớt, nên tuy bổn đạo mới nhưng anh rất sốt sắng cầu nguyện, xin ơn Chúa quan phòng. Cuối cùng Chúa đã nhận lời.
Gia đình anh được định cư tại Mỹ tháng tư năm 1994  theo diện HO 23. Nhờ có người bà con bên vợ bảo trợ về Riverside, một thành phố cổ nằm cạnh bờ sông Santa Ana, là cái nôi của kỹ nghệ trồng cam ở California. Gia đình anh cũng được hưởng mọi đặc ân của chính phủ Hoa Kỳ, đầy đủ như các gia đình cựu tù nhân Việt Nam Cộng Hòa. Được Hội USCC giúp đỡ một ít hiện kim, và thiện nguyện viên chở đi làm giấy tờ, từ đó họ gọi anh là Ba Le, đổi mới từ tên tuổi đến con người, mà trước kia anh đã từng  một thời phải đội nón cối, đi dép râu. Anh xin được việc làm trong hãng điện tử, chị thì làm trong hãng may.
Sáu đứa con anh vừa đi học vừa đi làm, chúng như những chồi non đang vươn lên, khi có cơ hội tốt là mau chóng thành công.
Tuy gia đình đông con, nhưng anh đã giáo dục con cái bằng đời sống gương mẫu, siêng năng đạo đức, ôn hòa và chính trực. Anh được nhiều người yêu mến tin tưởng, bầu làm chủ tịch trong một cộng đoàn giáo xứ người Việt Nam.
Bây giờ anh chị lớn tuổi, đã qua những ngày cơ cực. Các con được học hành đến nơi đến chốn, có cơ ngơi riêng biệt “Nhìn lên thì không bằng ai, nhìn xuống thì không ai bằng mình”. Anh mãn nguyện nói như vậy.
Sau hơn hai mươi năm sống tại Mỹ, nhìn về quê nhà anh không khỏi chạnh lòng, nên hay bày tỏ nỗi bất mãn cộng sản. Những bài viết trên online anh thường phê phán nhà cầm quyền cộng sản phi nhân. Để đạt được mục đích cuồng vọng xâm lăng, cố chiếm cho được miền Nam bằng thân xác hàng triệu sinh linh. Rồi anh sưu tầm những tin tức mà hiện nay cộng sản Việt Nam giấu diếm. Vạch trần âm mưu bán nước, hại dân của những quan chức tham ô, để gửi thư email đến cho nhiều người.
Anh Ba Lê cũng không quên nhắc đến chương trình chiêu hồi của chính phủ VNCH (được Mỹ yểm trợ) để khuyến khích bộ đội Bắc Việt và các thành phần “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, quay về với chính phủ VNCH.
Được thành lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1963, tính cho đến tháng Tư năm 1975 đã giúp cho gần 200,000 cán binh Việt cộng ra hồi chánh. Cũng như anh may mắn nhờ chiêu hồi, đã tìm được con đường quay về với chính nghĩa quốc gia, làm lại cuộc đời.
Anh Ba Lê so sánh sự khác biệt giữa chính sách nhân đạo của thế giới tự do, với chiêu bài cộng sản “Thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, nên khi chiếm được miền Nam, cộng sản đã ra tay trả thù tàn ác với những người sĩ quan quân lực VNCH, dù đã buông súng đầu hàng vô điều kiện. Trong khi anh, một người sĩ quan bộ đội cộng sản đã từng theo lệnh Bắc Bộ Phủ Hà Nội, vi phạm Hiệp Định Genève, xâm lấn miền Nam, quấy phá sự thanh bình của một miền đất tự do no ấm. Anh đã từng là một “khủng bố lén lút” theo lịnh đảng giết hại đồng bào, đã tiếp tay làm chết biết bao quân nhân Mỹ và đồng minh. Vậy mà giờ đây chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ vẫn mở rộng vòng tay đón nhận anh và gia đình.
 “Khách đến nhà không trà thì rượu” vì thế trà vào lời ra, anh hay kể cho chúng tôi nghe trong niềm  xúc động nhạt nhòa, về một giai đoạn cùng khổ, do tà thuyết và chủ nghĩa cộng sản du nhập vào tàn phá đất nước, mà tất cả người Việt từ Bắc chí Nam phải gánh chịu.
Thấy anh Ba Lê đang thao thao kể chuyện, bà xã tôi mạn phép xen vào:
-Thế cấp bậc cuối cùng của anh là trung úy, vậy lúc ở ngoài Bắc anh được đào tạo từ trường sĩ quan nào?
Anh thật thà:
-Đâu có đào tạo hay huấn luyện trường lớp mẹ gì!.!. Chỉ đi lính lâu năm thì lên lon thôi!
Chúng tôi chưa hết ngạc nhiên, thì anh tiếp:
-Hồi tôi đang “Cải tạo” ở trại Gia Rây, có biết một tên trung úy Việt cộng, lúc ấy đang làm quản giáo. Hắn ta người miền Nam đi theo cách mạng từ năm 12-13 tuổi, hắn không biết một chữ nhất, chỉ biết ký tên mình là Nam thôi!
 Theo như lời anh kể phần nhiều các chính ủy, cán bộ …Thường ít học, chỉ “sống lâu lên lão làng”. Sĩ quan, binh lính… không được huấn luyện kỹ lưỡng ở các quân trường như quân đội VNCH, chỉ được dạy sơ xài cách sử dụng vũ khí. Thủ trưởng cấp sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn,đại đội có khi vừa đi vừa huấn luyện, ngay trên đường mòn HCM để vào miền Nam “đánh nhau” theo chiến thuật biển người, đó là lối nướng quân tàn bạo nhất.
Nghe anh Ba Lê nói, tôi không khỏi buồn, vì bao nhiêu năm chúng tôi uổng phí thời gian, tiêu hao tuổi đời, để phải “học tập” từ những con người thất học như tên Nam.
*
 Anh Ba Lê quê ở Nghệ An Hà Tĩnh. Năm 1960 chưa học hết lớp 10 anh phải nghỉ học ở nhà phụ làm ruộng, như mọi người trong làng. Cha mẹ không có tiền cho con đi học tiếp, dù rất thương con. Anh là thứ năm trong số tám anh em.
Đầu năm 1962  anh được “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” (đó là xảo ngôn để lùa đám thanh niên miền Bắc xâm lăng miền Nam) thật ra anh cũng chẳng muốn nhận cái vinh hạnh “trúng tuyển” ấy.  Nhưng chỉ sợ sổ gạo bị cúp cả nhà đói meo! Rồi anh được bổ xung vào đại đội 3 tiểu đoàn 1 làm công tác vận chuyển súng đạn đến biên giới Lào.
Cuối năm 1964 đại đội anh được học “khẩn trương” ở Cửa Lò ba tháng để đi B (là mật khẩu của mặt trận miền Nam). Trước khi đi mỗi người lãnh hai bộ quần áo kaki, màu cứt ngựa rộng thùng thình, hai bộ bà ba đen, một cái mũ phớt, họ bảo cho hợp với lực lượng “Mặt Trận Giải Phóng” trong Nam. Xe khởi hành từ thành phố Vinh lúc một hai giờ đêm bí mật như đi ăn trộm, không đi đường chính mà đi đường vành đai. Chạy suốt đêm qua Thanh Hóa vào tới Quảng Bình, khi đến chân đèo “ngàn lẻ một” gần làng Tha Hoa, huyện Gio Linh, từ đó đơn vị anh bắt đầu lội bộ lần theo đường mòn HCM đầy gian khổ, trèo non lội suối bất kể ngày đêm, mỗi người trên lưng đeo 30 ký lô súng đạn, mà chỉ có ba ống gạo, một ký muối và mươi viên thuốc trị sốt rét. Cái dây thắt lưng quanh bụng, móc đầy những đồ chiến lược: Vải ny-lông che mưa, băng bông phòng bị thương, một con dao găm cùn nội hóa, một đôi dép lốp, một cây rút quai dép ….
  Hồi ở Hà Nội nghe cái tên Trường Sơn thật hùng vĩ, họ cho bọn anh xem ảnh ai cũng say mê  cảnh đẹp thiên nhiên. Nhưng thực tế ở đây cây cối xanh bạt ngàn, mà chẳng bới đâu ra cọng rau lúc đói. Núi đồi trùng điệp nhưng nấm thì rất độc, nhiều người ăn xong lăn đùng ra chết. Những dòng suối chảy êm ả, mà nước không đun sôi, uống vào bụng trương lên như trống làng. Mưa thì dai dẳng đen trời, thối đất. Đêm đêm nhìn cảnh màn trời chiếu đất, những cái võng vải treo tòng teng, im lìm trong cái tăng (tent) mỏng manh che chắn gió bão. Sáng hôm sau có người bạn nằm cạnh anh, ngủ luôn không dậy, vì sốt rét cả tuần mà tìm không có trạm nào còn viên thuốc ký ninh. Những con đường chập chùng không tên, cũng như bao con người có tên tuổi, nhưng nằm xuống thành nấm mồ vô danh.
Trong chốn rừng sâu núi thẳm này cái chết đến dễ dàng, chết vì đói vì rét, hoặc chỉ một mũi tên tẩm độc của biệt kích thượng. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, có khi nấu xong bữa cơm, che không kỹ để khói bay lên, máy bay đến giáng cho một trận mưa bom, chết vô số kể. Bọn anh hào hứng lúc đi, nhưng chỉ mới qua được hai ba trạm đã thấy nản, thằng nào thằng nấy bất mãn đầy bụng cái đám lãnh đạo Hà Nội vô trách nhiệm.
Đi bộ liên tục dọc theo phía Tây Trường Sơn, hơn một tháng thì đến Tây thừa Thiên, giáp đất Lào, gặp ngôi làng người dân tộc, thì dừng chân. Đơn vị anh được lệnh bổ xung vào mặt trận Tây Đô (đó là ám hiệu). Bọn anh được sát nhập vào đại đội 17 bộ đội chánh quy đã có sẵn từ lâu, thuộc phân khu Thừa Thiên Huế. Lớ ngớ như Mán trong rừng, cả đám chẳng được biết sự gì ngoài biệt danh là G2, họ nói để lỡ bị bắt thì quân đội miền Nam không truy tìm ra địa điểm.
Rồi từ đó được liên lạc về nhà, mỗi lá thư bọn anh phải bỏ hai phong bì, phong bì bên ngoài để địa chỉ khống hòm thư ở Hà Nội, dành cho bọn đi B. Phong bì bên trong để địa chỉ quê nhà mình, địa chỉ người gửi là G2, lúc bóc ra người ta sẽ kiểm tra rồi dán tem gửi về cho gia đình. Mà mình không được nói linh tinh lộ ra điều gì, là người ta vứt đi ngay không đến tay người nhận đâu! Người nhà trả lời thư cũng vậy.
Thế nên ở Ngoài Bắc cha mẹ đâu có biết, con em mình đi B đói khát khổ sở như thế nào? Những người lãnh đạo ngoài Hà nội đã lợi dụng lòng cả tin của mọi người, để biến họ thành công cụ, thỏa mãn cái giấc mơ của HCM, con đường mòn lót bằng xương, bằng máu của những người vượt Trường Sơn, mà Trung ương đảng lại đem con bỏ chợ, chỉ cung cấp vũ khí và ít lương thực cầm hơi. Đi đến đâu thì phải tự lực cánh sinh, tự túc kiếm sống, không chừa biện pháp cưỡng bức dân chúng cung cấp lương thực, như một đoàn quân “thảo khấu”.
Vì thế những ngày đóng trên rừng giáp Lào, bọn anh nhờ được người dân tộc, chỉ cho cách đốt rừng, phát rẫy, trồng ngô, trồng sắn mới có cái ăn, để đủ sức canh gác con đường mòn mang tên “bác”. Lúc đó đơn vị anh được lệnh ém quân, không được bắn súng lớn, hay liên thanh, chỉ bắn loại cạc-bin, để cho đối phương không phát hiện ra.
Đầu năm 1996,  đơn vị anh được lệnh xuất đầu lộ diện. Mặt trận lúc ấy bọn anh phụ trách nó mỏng lắm, ngay chỗ eo nhỏ nhất của nước Việt Nam, bề ngang chỉ độ 40 cây số. Đi từ rừng mất mấy tiếng là tuột xuống biển. Anh còn nhớ đi qua những ngôi làng, có từng dãy nhà ba gian hai chái, vườn rau ao cá, dân cư sống sung túc, thoải mái, anh rất ngạc nhiên, không thấy Mỹ ngụy kìm kẹp chỗ nào? Như lời tuyên truyền.
Ban ngày thì bọn anh trốn trên rừng, khi bóng đêm bao phủ vạn vật,  thì mò xuống mục tiêu để đắp mô cản đường, giật xập cầu, đặt mìn trên lộ, làm nổ banh nhiều chuyến xe đò, có cả đàn bà và trẻ con, gây bao đau thương tang tóc, như những hung thần trong bóng tối. Bọn anh cứ đi theo anh chính trị viên, anh ta đi chậm thì theo chậm, đi nhanh thì chạy nhanh, không được hỏi con đường mình đang đi tên gì. Chỉ làm theo mệnh lệnh, có đêm đi tấn công, pháo kích các đồn biên phòng. Nay bót này, mai đồn khác, để đánh lạc hướng, không đủ sức đối mặt thì như kẻ cắn trộm, đánh nhanh rút lẹ. Có những đêm bị đối phương phản công vừa chết vừa bị thương, không kịp chạy về rừng, mệt mỏi và đói khát, bọn anh đánh liều gõ cửa nhà dân xin trú ngụ, nhưng họ không hề có chút cảm tình gì với các anh bộ đội “cụ Hồ”, vừa mở cửa thấy mình thì sợ hãi, rồi khẩn khoản:
-Lạy các ông đi ngay cho, các ông đi đến đâu, là cả khu đó tan nát tơi bời! Rồi vội vàng đóng xập cửa lại.
Xem ra dưới con mắt của người dân, họ không mấy thiện cảm với cái hình ảnh, các anh hùng mang “sứ mệnh đi giải phóng”, mà Hà Nội đã tô vẽ cho bọn anh trước khi lên đường. Anh tự hỏi có phải đây là những đồng bào đang chờ mình vào giải phóng, hay ngược lại khi so sánh cuộc sống thiếu thốn của dân chúng miền Bắc, vốn đã đói rách lầm than, mà cha mẹ, anh em của mình và hàng trăm hàng nghìn người dân phải thắt lưng buộc bụng, để đóng góp tiếp tế cho một cuộc chiến tranh xâm lăng.
                                                *
Một cú sốc, khiến anh Ba Lê tìm đường hồi chánh.
Tết Mậu Thân năm 1968. Cộng sản đã lợi dụng lệnh ngưng bắn trong Hội Nghị Liên Hiệp: Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Sản Hà Nội với “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” . Giữa giây phút thiêng liêng nhất của ngày đầu năm, đã tấn công bất ngờ những nơi đồn trú xung yếu và quan trọng của Quân Lực VNCH. Bất hạnh cho người dân miền Nam trong ngày tết truyền thống, chưa kịp đoàn viên gia đình, thì tiếng súng cộng quân đã rền vang thay cho tiếng pháo giao thừa.
Trong cuộc tổng tấn công này, việt cộng đã bị đẩy lui. Các địa điểm như Saigon-Chợ Lớn cầm cự được tám chín ngày, còn các nơi khác chỉ một hai ngày hay vài tiếng đồng hồ. Nhưng đặc biệt ở Huế, Việt cộng đã chiếm hữu được 25 ngày, bởi vì họ dồn toàn lực lượng chính quy Bắc Việt đã dày dạn chiến trường, được chuẩn bị kỹ lưỡng, thông đồng với bọn chỉ điểm trước khi phát động tấn công. Thừa lúc quân đội VNCH nghỉ Tết không đề phòng, để đột ngột công phá tối đa.
Anh Ba Lê kể rằng, trung đội anh cũng nhận lệnh tham dự tấn công cổ thành Huế vào giữa đêm ba mươi, từ phía Tây Bắc dưới sự hỗ trợ của các tiểu đoàn đặc công. Nhờ yếu tố bất ngờ đơn vị anh nhanh chóng chiếm được một vùng trong thành. Nhưng “quân giải phóng” đi tới đâu dân bỏ chạy tới đó,  họ không kịp mang theo gạo, thịt, bánh, mứt dự trữ ngày Tết. Thế là đạo quân “chiến thắng” đói kinh niên, được no nê trước khi chết. Bọn anh sáng mắt lên với những kho lương thực, mà cả đời chưa bao giờ thấy, rồi hè nhau thồ bằng  xe đạp, hoặc xe “cải tiến” để khuân hết “của ăn của để”  lên rừng.
Chú biết không? Nhìn cảnh này anh thầm nghĩ: “Đây có phải là vùng đất đang chờ được giải phóng không? Nhìn lại bản thân mình, anh thấy một tình cảnh trái ngược, chính mình bây giờ đang cướp lấy miếng ăn, từ những con người tưởng là cùng khổ. Có phải là cay đắng lắm không?”
 Đâu được hơn một tuần, thì quân tiếp viện của quân lực VNCH từ Quảng Trị đến, đụng trận Việt cộng chịu không thấu chết hơn một nửa. Tuy lúc đó đa số cộng quân chiếm được các mục tiêu, nhưng vì hết súng đạn, đành thúc thủ, như trung đội anh còn 9-10 đứa và một khẩu pháo làm cảnh.
 Đến ngày thứ mười bọn anh đang đánh nhau lại được lệnh rút lui, nghe rút anh mừng lắm, vì biết mình còn được sống, nhưng lại bảo rút theo đường cũ, trong lòng anh cũng nghi nghi. Ngày hôm sau trung đội anh được lệnh khiêng khẩu pháo đi lên rừng, rồi lại khiêng xuống thành Huế. Những thân thể gầy đét, suy nhược vì những ngày kham khổ vượt Trường Sơn, phải thay đổi nhau khiêng cái đế pháo tháo rời nặng chịch, muốn gục xuống. Hai thằng khác khiêng nòng súng, tay vịn cái đòn đang chĩu trên vai, tay chống gậy cho vững kẻo trượt chân. Vậy mà bọn anh theo mệnh lệnh cứ luẩn quẩn lên xuống mãi con đường chết tiệt, lết tới lết lui, mục đích để dân chúng nhìn thấy mà đồn rằng, bộ đội còn nhiều súng lớn. Lúc lên rừng anh suy nghĩ, thì ra đơn vị mình là đánh nghi binh chứ không phải rút lui về đường cũ.
 Vì hầu hết đoàn quân nó rút qua những con đường bí mật, còn đơn vị anh thì nó bắt mình đi trên lộ chính. Qua làng Quế Chử, bọn anh tính ghé vào nghỉ chân, nhưng rồi lại dắt nhau lội ruộng theo đường chiến lược. Tự nhiên ở đâu có con chó đen to lắm nó theo anh, rồi nó đi trước, mình cứ vậy mà theo con chó gần hai chục cây số, nó đưa bọn anh qua một chiếc cầu, về đến sát rừng dẫn tuột xuống con suối. Mấy thằng lính nói: -“Anh Bá ơi để tôi trói con chó này về tới rừng mình làm thịt”. Nhưng anh bảo: “Tao không nhất trí cái đó, đứa nào ăn thì làm”. Sau súng bắn rát quá chó chạy biến mất, anh linh tính oan hồn của những thằng bạn mới chết, nhập vào nó dẫn đường cho bọn anh.
Leo lên đến rừng quay nhìn lại, quân đội VNCH đông như kiến, Con đường chính hồi nãy bị pháo từ rừng bắn xuống. Pháo binh của VNCH bắn lên, chặn đường đi, nếu không nhờ con chó dẫn đường, thì bao nhiêu súng nó châu vào bọn anh chết banh xác hết.
Đang đi gặp toán bộ đội trinh sát nó còn hỏi:
Các anh đi đường nào lên đây?  Có ghé vào làng Quế Chử gặp đơn vị của Mỹ đóng tại đó không?
Anh trả lời: - Bọn tao đâu có ghé vào làng đâu mà gặp!
Sau này anh suy nghĩ, vậy là tụi nó tính hết rồi. Nếu mình không nhanh trí thì đơn vị mình làm con tốt thí trên bàn cờ. Hôm đấy lên đến rừng, tụi lính hì hục đào hầm tránh bom, chứ nếu bắt con chó đen, mải làm thịt thì cũng chết hết. Vì đêm đó máy bay thả trái sáng đầy  một vùng trời,  B52 nó dập tơi bời ngay mục tiêu, cái hầm bên cạnh anh, cách mấy thước chết không còn một mống.
Khoảng ngày thứ hai mươi, Việt Cộng đã kiệt sức và hết đạn, cố gắng giao tranh thêm vài ngày  nữa, thì rút lui hoàn toàn. Vì chết rất nhiều, không như báo cáo láo, trong các cuộc chiến mà đảng cộng sản thường phát động, ta chiến thắng vẻ vang. Mà sự thực là: “Địch chết ba ta chết ráo”. Tàn quân trốn lên rừng, những chiến lợi phẩm lấy được của dân đem chất ở ven rừng, bị quân đội VNCH phản kích tịch thu hết, nên từ đó những thằng sống sót lại phải chống chỏi với cái bụng đói rã, còn được tí gạo nào thì  bọn bộ đội ở Bắc mới vào nó ăn hết. Bọn anh  phải mót lại những búp măng gầy ăn qua ngày, muối cũng không có mà chấm, phải kiếm lá rừng ăn thay. Bị bệnh kiết lỵ chết thêm một mớ nữa.
Thật tình anh và nhiều đồng đội chán nản lắm rồi.  Ngay từ lúc xâm nhập sâu vào vùng đất trù phú, đã mở mắt ra để biết mình lầm, nhưng không thằng nào dám mở miệng. Hàng ngày cứ nghe tiếng máy bay ù…ù…quen thuộc, rồi tiếng người cất lên oang oang như tiếng sấm trốc đầu: “Hỡi các anh cán binh cộng sản. Miền Nam chúng tôi không cần các anh giải phóng, tại sao các anh phải chịu đựng vất vả đói khát làm gì, các anh hãy hồi chánh trở về với chính nghĩa quốc gia, chúng tôi sẵn sàng đón tiếp các anh em…. “ Rồi những tờ giấy thông hành, được thả xuống bay rợp trời, nhưng bọn anh chỉ đứng xa mà nhìn, vì tuyệt đối không ai được lưu trữ, hoặc lén đọc, sẽ bị qui kết vào tội tư tưởng phản động.
                                                *
Nói về diễn tiến hồi chánh, anh Ba Lê kể:
- Anh còn nhớ như in vào khoảng hai giờ, một đêm mưa tầm tã tháng 6/1970. Đơn vị anh được lệnh tấn công một cái đồn trên cao điểm 820, nằm trong lòng Trường sơn. Bao vây, rồi lùa lên xung phong, vẫn theo lối đánh thí mạng, đánh xối xả, dù biết rằng đang lao vào chỗ chết.
Anh cay cú tiếp: “Chú mày biết không? Trong chiến tranh một trong những vấn đề đặt lên hàng đầu là phương tiện, vũ khí và lực lượng phải tương quan, thì người lãnh đạo sáng suốt mới nghĩ đến, xua quân vào đánh đấm”. Đàng này tấn công  mà chỉ biết đối phương trên khái quát, không cân sức. Rốt cuộc đơn vị anh tan nát ngay từ phút đầu, chưa tiến đến mục tiêu, pháo binh của địch đã nã trước mình, rồi máy bay tới quạt lia lịa, nhiều người trúng thương, máu me cùng mình, mạnh ai nấy chạy bạt mạng dưới làn mưa đạn.
Trong tình cảnh này, anh quyết định rời hàng ngũ, âm thầm một mình ra đi, dù biết đi như vầy là một sống hai chết. Ngày thứ nhất nhìn qua đồi bên kia nhắm hướng, nhưng bom bỏ nhiều quá không đi được. Ngày thứ hai may quá không thấy máy bay quần thảo, anh liều trốn qua bên kia đồi, đang mò mẫm tìm đường, anh  giật mình sợ hãi khi gặp toán tiền tiêu (tiền sát) của Việt Nam Cộng Hòa. Họ hờm súng ra hiệu cho anh bỏ hai tay xuống. Anh trình bày xin chiêu hồi. Một người xáp vào khám xét, ngoài những thứ “gia bảo cụ Hồ” để lại, họ lôi ra một khẩu súng ngắn trong túi quần. Rồi dẫn anh lên đồn, đó là tiểu đoàn 1 trung đoàn 2, sư đoàn 2 Bộ binh. Anh được đối đãi tử tế như khách. Ngồi chờ chưa đến nửa ngày thì có máy bay chở anh về căn cứ trung đoàn ở Quảng Trị. Hai ngày sau anh được đưa về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1. Tại đây anh đã thành thật khai báo về bản thân và những gì mình biết.
Vài ngày sau anh được chuyển về Trung Tâm Chiêu Hồi Trung Ương ở Thị Nghè Saigon. Anh được học một lớp chính huấn khoảng 1 – 2 tháng. Sau đó được nhận vào làm công tác võ trang tuyên truyền, dưới quyền của ông Võ Đại Tôn. Mục đích kể lại sự thực mắt thấy tai nghe về những dã tâm của cộng sản. Lúc đó ông Hồ văn Châm làm Bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi. Tại đây anh được chính quyền cho thụ hưởng đầy đủ quyền công dân, giúp đỡ hội nhập trọn vẹn vào cộng đồng dân tộc và hướng dẫn cho anh hòa nhập vào nếp sống mới tại miền đất tự do.
Nhờ người quen mai mối anh Ba Lê đã lập gia đình với người chị họ của tôi (đạo công giáo). Anh được rửa tội vào mùa lễ Phục Sinh ngày 16 tháng 4 năm 1971 tại nhà thờ Tân Châu. Anh sống những ngày bình yên bên vợ con, cho đến ngày mất miền Nam. Sau 30/4/1975,  anh ra trình diện ở Bộ Xây Dựng Nông Thôn. Nhà cầm quyền mới nhốt anh tại nhà tù Biên Hòa một thời gian, rồi đưa anh đi “cải tạo” ở trại Gia Rây.
Bây giờ mỗi lần nhớ đến những kỷ niệm kinh hoàng về cuộc chiến tranh tương tàn, như vẫn còn in đậm trong ký ức của anh Ba Lê. Anh nghiệm ra rằng, có trải qua những ngày tháng thiếu thốn đói nghèo ở miền Bắc, có lê gót trên đường mòn HCM, để chống chỏi với thời tiết khắc nghiệt, với bệnh tật và tranh dành từng miếng ăn. Có đánh đổi xương máu trên rừng Trường Sơn, theo đoàn quân cộng sản không phải để “giải phóng” mà là phá hoại miền Nam, mới biết ơn chính phủ VNCH đã bắc nhịp cầu thông cảm, cứu giúp những cán binh cộng sản muốn hối cải quay về.
Để như trường hợp gia đình anh Ba Lê hiện nay, may mắn được đất nước Hoa Kỳ, chấp thuận cho tị nạn, thoát khỏi chế độ độc tài cộng sản Việt Nam. Đặc biệt là con cháu của anh có cơ hội sống và học hành tại một nơi có nền giáo dục tốt nhất và nhiều cơ hội tiến thân, công ăn việc làm vững chắc. Để chúng có dịp góp tay xây dựng và tri ân đất nước đã cưu mang mình.
Năng Khiếu