Cầu Nguyện Hương Linh chị Huỳnh Thị Thanh Hiếu sớm phiêu diêu nơi miền cực lạc.
Cát Biển
Vài Ký Ức –
Hôm nay được tin chị Thanh Hiếu, bạn cùng lớp Ðệ Nhất PBC nhập học năm 1967, vừa vĩnh biệt, lòng tôi chợt nhớ về một tấm hình của chị trước cổng trường Phan Bội Châu…Trong chuyến công tác hảng Boeing tại Seattle năm 1997 tôi được có cơ hội ghé thăm gia đình chị Hiếu tại Portland Oregon, có cả chị Vân, là các chị học cùng lớp năm xưa ... Một thâm tình sau hơn 20 năm thời mài đũng quần nơi trường PBC thân yêu ... trước khi ra về anh Sanh chồng chị Hiếu còn nhất quyết tặng tôi 1 đôi giầy, và chị Hiếu cho xem lại tấm hình của chị mang kiếng mát, tay cầm áo ấm len đen trước cổng trường . Tôi nói tấm hình này cần được đăng trong Ðặc San Hội Bình Thuận. Chị Thanh Hiếu nói như vậy chị tặng luôn tấm hình nhé. Và sau đó tấm hình đã được scan ra và phổ biến khắp nơi cùng với các bài viết về Hội Bình Thuận và trường PBC Phan Thiết. Một tấm ảnh trông đơn sơ, nhưng nói nhiều về tính chất con người của các cựu học sinh PBC ngày xưa, vừa chuyên cần học hành, vừa tha thước trong nhân bản đạo đức...
Dạo đó tôi học trung học ở Sài Gòn. Năm 1967 tôi về học lớp đệ nhất tại trường trung học Phan Bội Châu Phan Thiết. Sau đó là các trường Đại Học ở Sài Gòn, cho đến ngày tình nguyện nhập ngũ quân chủng hải quân khóa 20 Đệ Nhị Hổ Cáp. Hải nghiệp đã mang nhiều ấp ủ thời tuổi trẻ, song bầu nhiệt huyết hăng say trong tính chất hào hùng cùng với các gian lao cực nhọc nang đến cho đời lính biển nhiều nguồn thi vị lãng mạn. Những năm học lớp đệ nhất vào mỗi buổi tối, lũ chúng tôi những người bạn yêu văn chương, thường tụ tập ngồi ngắm sao trời, bàn luận say mê về các tác phẩm nổi danh vào thời đó, thường là các tác phẩm triết lý gợi suy ngẫm cho tuổi mới lớn, như Ung Thư của Thanh Tâm Tuyền, Buồn Nôn của Jean-Paul Sartre, Bonjour Tristess của Francois Sagan, La Porte Etroite của Andre Gide do Bùi Giáng dịch v…v… Những lúc làm thơ, viết văn cho báo trường, là những bước đầu tập tễnh vào khu vườn văn thơ. Mãi đến lúc sang Hoa Kỳ, những buồn bã bâng khuâng từ nỗi cô đơn nhớ nhà, nhớ bạn bè, nhớ quê hương, đã dấy lên thành một động lực mạnh mẽ thôi thúc những bài thơ mang tâm trạng của nếp sống tha hương, về biển cả, về quê hương.
Phan Thiết là nơi chốn để nâng niu chiu chắt những kỷ niệm ngọc ngà của tuổi thơ. Quê hương Phan Thiết bình dị là một miền biển mặn có con sông Mường giang lững lờ trôi:
Ai về Phan Thiết quê tôi
Nhắn sông Mường Mán chiều ơi nhớ cùng
Phan Thiết trong lòng tôi vẫn mãi mãi là một chốn thân thương tuyệt vời của thời niên thiếu, khi tâm hồn còn bát ngát những ngây ngô non dại…Những niềm hạnh phúc vô biên với những câu chuyện đầy ly kỳ lẫn thi vị do người Cha kể lại, đã được chị em lắng nghe say mê từ lúc còn bé, đến những buổi cơm chiều đậm đà hương vị quê hương có canh chua, cá nục kho, gỏi cá mai do người Mẹ nấu, quây quần với tiếng cười tiếng ca náo nhiệt của các chị em trong nhà. Những kỷ niệm đậm lắng mãi trong một nơi sâu thẳm của ký ức, để ta mang theo suốt cuộc đời. Thành phố đó cũng mang nhiều hình ảnh lam lũ bình dị của những người dân chài miền biển. Những người dân Phan Thiết rất chân phương hiền hòa và mộc mạc trong lối giao tiếp giữa người và ngườị Khi lớn lên và có dịp vào Sài Gòn học trung học, dù rất yêu chốn phồn hoa đô hội này, nhưng Phan Thiết luôn luôn trải mời tiếng gọi réo rắc, kéo tấm lòng về với quê hương, vì nơi đó có hình ảnh của một mái ấm gia đình, có lũ bạn thuở thiếu thời, có mớ chân tình sâu đậm:
Mường Giang óng ánh nhẹ nhàng
Quê hương tôi đó muôn vàn nhớ thương
Người đi lạc xứ vấn vương
Chiều trông quê cũ lệ tuôn đôi hàng
Năm còn học lớp đệ nhất tại trường trung học Phan Bội Châu, Phan Thiết đã thoáng ghi nhận một mối tình học trò thơ ngây:
Phan Bội Châu áo dài tia nắng dại
Lối đi về vai chạm nhói tim nhau
Quay trở lại thời kỳ quê hương còn đắm chìm trong chiến tranh, chàng thanh niên trẻ sinh trong thời loạn đã rời ghế nhà trường để dấn thân vào cuộc chiến:
Rồi cảnh quê mình thêm khổ đau,
Bom giày đạn xéo đẩy chia ly,
Những cánh tay ôm ngày giã biệt,
Người trai nhập ngũ tuổi xuân thì
Rồi chúng tôi nhập ngũ như bao nhiêu thanh niên cùng lứa tuổi anh đã phải tòng quân trong hoàn cảnh đất nước điêu linh. Ngày bắt đầu lên đường theo tiếng gọi của non sông cũng là ngày chấm dứt cuộc đời thư sinh mơ mộng:
Anh ra đi gói theo hành trang nhỏ
Ấm quê hương thương mấy giọt lệ chào
Cửa xe cuối đời học sinh áo trắng
Khép kín khung trời thơ mộng xuyến xao
Quê hương tôi đó muôn vàn nhớ thương
Người đi lạc xứ vấn vương
Chiều trông quê cũ lệ tuôn đôi hàng
Năm còn học lớp đệ nhất tại trường trung học Phan Bội Châu, Phan Thiết đã thoáng ghi nhận một mối tình học trò thơ ngây:
Phan Bội Châu áo dài tia nắng dại
Lối đi về vai chạm nhói tim nhau
Quay trở lại thời kỳ quê hương còn đắm chìm trong chiến tranh, chàng thanh niên trẻ sinh trong thời loạn đã rời ghế nhà trường để dấn thân vào cuộc chiến:
Rồi cảnh quê mình thêm khổ đau,
Bom giày đạn xéo đẩy chia ly,
Những cánh tay ôm ngày giã biệt,
Người trai nhập ngũ tuổi xuân thì
Rồi chúng tôi nhập ngũ như bao nhiêu thanh niên cùng lứa tuổi anh đã phải tòng quân trong hoàn cảnh đất nước điêu linh. Ngày bắt đầu lên đường theo tiếng gọi của non sông cũng là ngày chấm dứt cuộc đời thư sinh mơ mộng:
Anh ra đi gói theo hành trang nhỏ
Ấm quê hương thương mấy giọt lệ chào
Cửa xe cuối đời học sinh áo trắng
Khép kín khung trời thơ mộng xuyến xao
Đại dương đã có một sức quyến rũ. Vào thời điểm đó, chiến cuộc đang tràn lan khắp nơi trên quê hương, với tuổi trẻ đầy bầu nhiệt huyết, nhìn cuộc đời bằng một màu xanh, màu xanh của mặt đại dương bao la, màu xanh của hy vọng tuổi trẻ:
Xưa yêu biển anh mộng mơ hải nghiệp
Dệt hồn mình thẳm tuyệt một màu xanh
Khi gia nhập quân chủng Hải quân khóa 20 Đệ nhị Hổ Cáp, những chàng trai được đào luyện theo truyền thống từ Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang đã ôm ấp một cuộc đời binh nghiệp với những chuyến hải hành phiêu lưu bất tận:
Áo trắng tinh anh mũ vành phong nhã
Nếp chỉ vàng vai áo dạ hoàng gia
Hoa biển mộng ẩn đầy vai khổ nhục
Cánh tay trần luyện hái gió đo mây
Ngày đăng quang quỳ đưa tay vũ trụ
Đeo nhẫn vàng thách thức ngũ đại dương
Xưa yêu biển anh mộng mơ hải nghiệp
Dệt hồn mình thẳm tuyệt một màu xanh
Khi gia nhập quân chủng Hải quân khóa 20 Đệ nhị Hổ Cáp, những chàng trai được đào luyện theo truyền thống từ Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang đã ôm ấp một cuộc đời binh nghiệp với những chuyến hải hành phiêu lưu bất tận:
Áo trắng tinh anh mũ vành phong nhã
Nếp chỉ vàng vai áo dạ hoàng gia
Hoa biển mộng ẩn đầy vai khổ nhục
Cánh tay trần luyện hái gió đo mây
Ngày đăng quang quỳ đưa tay vũ trụ
Đeo nhẫn vàng thách thức ngũ đại dương
Suốt những tháng năm thêu dệt mộng hải hồ, với những chuyến đi công tác, quần đảo Trường Sa là địa danh đã ghi lại biết bao nhiêu kỷ niệm với những chuyến hải hành đầy mưa giông bão táp, với tầm bao la của biển trời, và sự nhỏ nhoi cô độc của thủy thủ giữa ngàn khơi. Các binh sĩ đóng ở các hải đảo hẻo lánh xa xôi với sóng nước mênh mông chung quanh, chỉ có bạn là những chú chim hải âu với tiếng kêu vang trời trên hải đảọ Các thủy thủ thường chỉ mong thấy được bóng dáng con tàu để tưởng nhớ đến đất liền, bắt cầu nối nhịp với đời sống loài ngườị Người thuỷ thủ liên tưởng một thế giới biển cả thâm sâu bí ẩn, và hằng hà sa số các sinh vật đặc thù kỳ lạ trong thế giới thủy cung:
Rồi từ đó loài kình ngư lượn sóng
Mộng thủy cung huyền thoại mỹ nhân ngư
Ngắm sao trời gió lũ sóng ba đào
Đi chất ngất chuyến phiêu lưu kỳ ảo
Chiều Trường Sa hải âu bay ngập đảo
Con tàu vượt đại dương trong những chuyến hải hành của người lính thủy đáp lại chí tang bồng:
Bến ở đi sương mờ giăng hải lý
Gan thép thề bền bỉ với non sông
Những ca đêm hải hành vào tác xạ
Đại pháo bắn đi rung cả thân tàu
Rồi những chiều mưa giông vờn bão lớn
Tàu nghiến mình răng rắc rợn cả da
Và những chuyến xuôi buồm trong nắng sớm
Thủy thủ hát ca vang vọng cả boong tàu
Hải nghiệp tưởng đã theo mình, nào ngờ biến cố tháng Tư năm 1975 đã khiến cuộc đời rẻ qua một khúc quanh lịch sử khác, gắn liền với định mệnh của dân tộc:
Phiêu lãng đời trai ngất cao ước mộng
Bỗng một chiều ác mộng tháng Tư đen
Nhổ neo cắt xuồng đắng cay tấc lưỡi
Xếp lá cờ tức tưởi kiếp tha hương
Buổi chiều tháng Năm năm 1975 tại hải phận Phi Luật Tân, chưa bao giờ người tha hương lại có một cảm giác lưu vong buồn nản cho kiếp người đến tức tưởi như thế. Bây giờ mỗi khi nhắc lại biến cố này không khỏi nấc nghẹn nơi cổ:
Ngày Ba tháng Năm tàu vào Phi phận
Con số chiếc tàu sơn cạo, xóa tên
Bao nhiêu uy danh nay thành hư ảo
Khối sắt vô hồn, thây xác rỗng tênh
Còi chào sĩ quan nghe cay đắng nhức
Viên chức Hoa Kỳ trình ủy nhiệm thư
Nhận các con tàu vừa thành vô chủ
Áo biển trẽn trơ ngày mất bến bờ
Trong lòng mang tâm sự của một người lính trẻ, đã không còn được cả cái quyền buồn vì da ngựa bọc thây nữa, và đã thoáng lo âu về tương lai đất nước:
Cả trời tin yêu một lòng anh dũng
Tuổi trẻ kiêu hùng dâng hiến quê cha
Nay quê chẳng còn, con buông chí cả
Mai con đi rồi ai giữ quê tả
Buổi chiều trao trả chiến hạm lại cho các sĩ quan Hoa Kỳ để họ bàn giao tàu lại cho hải quân Phi, khi lệnh hô: “Hạ kỳ!”, cả thủy thủ đoàn anh ai cũng chào tay mà khóc sướt mướt, vì biểu tượng cuối cùng của đất nước, chất keo sơn cuối cùng gắn bó giữa những người bạn đồng đội đã bị tước đoạt đi:
Chiều gió mơ màng hàng người im phắc
Đứng thẳng boong tàu cứng ngắt, chào tay
Nhìn lá cờ vàng lòng đau quặn thắt
Còi thổi: “Hạ kỳ”, mọi mắt đều cay
Có kẻ nấc lên người kềm nước mắt
Nhìn lại bạn bè hận ức bủa vây
Hăm Chín Tháng Tư khăn tang ban phát
Tàu có hai xuồng chung thủy đón đưa
Lệnh gom quân vĩnh biệt đến giờ
Không kéo thuyền lên mà đành đoạn cắt
Thủy thủ chặt giây, hồn tim se thắt
Lìa bỏ con thuyền dứt bến bờ thương
Mồng Bảy tháng Năm ta mang đời tị nạn
Từ đó hằn sâu dấu tích quê hương
Tại trại tị nạn Orote Point ở Guam, chúng tôi đã cảm nhận cả một nỗi niềm cô đơn trống vắng mênh mông vào những tháng ngày đầu tiên trên xứ người. Nghe hồn mình như chú chim lạc bầy giữa thành phố lạ, mà lòng vẫn ray rức khôn nguôi tiếc nuối những tháng ngày lênh đênh trên biển cả:
Khuya nay lệ đắng hành trang
Chim về phố lạ, lũ đàn bỏ rơi
Sóng ơi xin chớ gọi mời
Biển yêu chớ trách một đời dở dang
Trước ngày ra đi khoảng 2 tuần, tôi được Thiếu Úy Hoành Khoá 23 cho biết tôi vừa có Nghị Ðịnh thăng cấp Ðại Úy, nhưng tâm trí nào còn màng đến chuyện lên lon hay xuống cấp…Trong hành trình tức tưởi rời bỏ quê hương đi vào một phương trời xa lạ, anh em binh sĩ đến hỏi “Trung Úy ơi, mai mốt qua xứ Hoa Kỳ xa lạ, mình làm gì để sống hả Trung Úy?” Có biết đâu lòng mình cũng đang hoang mang không kém gì những binh sĩ này:
Chiều nào nghe tên mình đọc trên loa
Ngỡ ngàng bước lao mình cơn gió lốc
Đi ở chia tay giã từ rào cổng
Mỏi gót chân đời nên cười hay khóc?
Cuộc đời tha hương sau đó chỉ là những chuỗi ngày dật dờ cho qua một kiếp người:
Mỗi ngày xa quê là một ngày lạc lỏng
Mỗi bóng mặt trời là một kiếp khổ sai
Mỗi tối hoàng hôn là âm tỳ tủi nhục
Mỗi sóng reo đùa là mũi nhọn chởm gai
Rồi từ đó loài kình ngư lượn sóng
Mộng thủy cung huyền thoại mỹ nhân ngư
Ngắm sao trời gió lũ sóng ba đào
Đi chất ngất chuyến phiêu lưu kỳ ảo
Chiều Trường Sa hải âu bay ngập đảo
Con tàu vượt đại dương trong những chuyến hải hành của người lính thủy đáp lại chí tang bồng:
Bến ở đi sương mờ giăng hải lý
Gan thép thề bền bỉ với non sông
Những ca đêm hải hành vào tác xạ
Đại pháo bắn đi rung cả thân tàu
Rồi những chiều mưa giông vờn bão lớn
Tàu nghiến mình răng rắc rợn cả da
Và những chuyến xuôi buồm trong nắng sớm
Thủy thủ hát ca vang vọng cả boong tàu
Hải nghiệp tưởng đã theo mình, nào ngờ biến cố tháng Tư năm 1975 đã khiến cuộc đời rẻ qua một khúc quanh lịch sử khác, gắn liền với định mệnh của dân tộc:
Phiêu lãng đời trai ngất cao ước mộng
Bỗng một chiều ác mộng tháng Tư đen
Nhổ neo cắt xuồng đắng cay tấc lưỡi
Xếp lá cờ tức tưởi kiếp tha hương
Buổi chiều tháng Năm năm 1975 tại hải phận Phi Luật Tân, chưa bao giờ người tha hương lại có một cảm giác lưu vong buồn nản cho kiếp người đến tức tưởi như thế. Bây giờ mỗi khi nhắc lại biến cố này không khỏi nấc nghẹn nơi cổ:
Ngày Ba tháng Năm tàu vào Phi phận
Con số chiếc tàu sơn cạo, xóa tên
Bao nhiêu uy danh nay thành hư ảo
Khối sắt vô hồn, thây xác rỗng tênh
Còi chào sĩ quan nghe cay đắng nhức
Viên chức Hoa Kỳ trình ủy nhiệm thư
Nhận các con tàu vừa thành vô chủ
Áo biển trẽn trơ ngày mất bến bờ
Trong lòng mang tâm sự của một người lính trẻ, đã không còn được cả cái quyền buồn vì da ngựa bọc thây nữa, và đã thoáng lo âu về tương lai đất nước:
Cả trời tin yêu một lòng anh dũng
Tuổi trẻ kiêu hùng dâng hiến quê cha
Nay quê chẳng còn, con buông chí cả
Mai con đi rồi ai giữ quê tả
Buổi chiều trao trả chiến hạm lại cho các sĩ quan Hoa Kỳ để họ bàn giao tàu lại cho hải quân Phi, khi lệnh hô: “Hạ kỳ!”, cả thủy thủ đoàn anh ai cũng chào tay mà khóc sướt mướt, vì biểu tượng cuối cùng của đất nước, chất keo sơn cuối cùng gắn bó giữa những người bạn đồng đội đã bị tước đoạt đi:
Chiều gió mơ màng hàng người im phắc
Đứng thẳng boong tàu cứng ngắt, chào tay
Nhìn lá cờ vàng lòng đau quặn thắt
Còi thổi: “Hạ kỳ”, mọi mắt đều cay
Có kẻ nấc lên người kềm nước mắt
Nhìn lại bạn bè hận ức bủa vây
Hăm Chín Tháng Tư khăn tang ban phát
Tàu có hai xuồng chung thủy đón đưa
Lệnh gom quân vĩnh biệt đến giờ
Không kéo thuyền lên mà đành đoạn cắt
Thủy thủ chặt giây, hồn tim se thắt
Lìa bỏ con thuyền dứt bến bờ thương
Mồng Bảy tháng Năm ta mang đời tị nạn
Từ đó hằn sâu dấu tích quê hương
Tại trại tị nạn Orote Point ở Guam, chúng tôi đã cảm nhận cả một nỗi niềm cô đơn trống vắng mênh mông vào những tháng ngày đầu tiên trên xứ người. Nghe hồn mình như chú chim lạc bầy giữa thành phố lạ, mà lòng vẫn ray rức khôn nguôi tiếc nuối những tháng ngày lênh đênh trên biển cả:
Khuya nay lệ đắng hành trang
Chim về phố lạ, lũ đàn bỏ rơi
Sóng ơi xin chớ gọi mời
Biển yêu chớ trách một đời dở dang
Trước ngày ra đi khoảng 2 tuần, tôi được Thiếu Úy Hoành Khoá 23 cho biết tôi vừa có Nghị Ðịnh thăng cấp Ðại Úy, nhưng tâm trí nào còn màng đến chuyện lên lon hay xuống cấp…Trong hành trình tức tưởi rời bỏ quê hương đi vào một phương trời xa lạ, anh em binh sĩ đến hỏi “Trung Úy ơi, mai mốt qua xứ Hoa Kỳ xa lạ, mình làm gì để sống hả Trung Úy?” Có biết đâu lòng mình cũng đang hoang mang không kém gì những binh sĩ này:
Chiều nào nghe tên mình đọc trên loa
Ngỡ ngàng bước lao mình cơn gió lốc
Đi ở chia tay giã từ rào cổng
Mỏi gót chân đời nên cười hay khóc?
Cuộc đời tha hương sau đó chỉ là những chuỗi ngày dật dờ cho qua một kiếp người:
Mỗi ngày xa quê là một ngày lạc lỏng
Mỗi bóng mặt trời là một kiếp khổ sai
Mỗi tối hoàng hôn là âm tỳ tủi nhục
Mỗi sóng reo đùa là mũi nhọn chởm gai
Hôm nay nhận thêm tin chị Thanh Hiếu lìa đời, như sự vĩnh biệt cuả những bạn thân xưa thời trai trẻ...những Diệu Lý, Bá Long, Nam Bò, Sử Rỗ, Dũng Lọ v.v... Mình tự hỏi thế nào là sự hiện diện của chúng ta ...như những đêm kế bên hảng nước đá Huỳnh Ðức thời theo học lớp Ðệ Nhất trường PBC, từng bàn luận:
Con người là các sản phẩm chưa hoàn tất –
Unfinished products,
Cho tới vài giây trước khi buông tay nhắm mắt.
Cuộc hành trình
Thế có phải chăng là một chuỗi dài học hỏi,
để vượt qua các giới hạn?
Một hôm nào, chợt nhìn lại, tuổi xuân đã qua, dù giấc mộng giang hồ trên biển cả vẫn còn rất mãnh liệt, trong ta chỉ còn ký ức của một thời ngạo nghễ:
Nay phố lạ áo gươm trao trả mộng
Thoáng rượu nồng hổ chợt nhớ rừng xưa
Ôi hải nghiệp biển yêu còn ấp ủ
Tóc ngã màu chim rũ cánh phiêu du…
Con người là các sản phẩm chưa hoàn tất –
Unfinished products,
Cho tới vài giây trước khi buông tay nhắm mắt.
Cuộc hành trình
Thế có phải chăng là một chuỗi dài học hỏi,
để vượt qua các giới hạn?
Một hôm nào, chợt nhìn lại, tuổi xuân đã qua, dù giấc mộng giang hồ trên biển cả vẫn còn rất mãnh liệt, trong ta chỉ còn ký ức của một thời ngạo nghễ:
Nay phố lạ áo gươm trao trả mộng
Thoáng rượu nồng hổ chợt nhớ rừng xưa
Ôi hải nghiệp biển yêu còn ấp ủ
Tóc ngã màu chim rũ cánh phiêu du…
Cát Biển
PBC-68
No comments:
Post a Comment