Quang cảnh buổi họp khẩn cấp của Hội Đồng Thành Phố Westminster trưa Thứ Tư, 19 Tháng Sáu.(Hình: Nguyễn Việt Linh/Người Việt)
Nguyễn Việt Linh/Người Việt
WESTMINSTER, California (NV) – Thị Trưởng
Westminster, Trí Tạ, đã triệu tập phiên họp khẩn lúc 1 giờ trưa Thứ Tư,
19 Tháng Sáu, 2019, để Hội Đồng Thành Phố tìm phương thức đối phó với
các thông tin gây chia rẽ và các lời bình phẩm phương hại cộng đồng, và
các tin tức thất thiệt “do các nghị viên loan truyền trên trang Facebook
cá nhân” về thành phố Westminster.
Kết quả bỏ phiếu tỷ số 3-1 (gồm ba phiếu thuận của Thị Trưởng
Trí Tạ, Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ và Nghị Viên Charlie Chí Nguyễn; và
một phiếu chống của Nghị Viên Tài Đỗ, Nghị Viên Sergio Contreras vắng
mặt) đã thông qua một thông cáo báo chí do Nghị Viên Charlie Chí Nguyễn
đề nghị để phổ biến và khẳng định với nội dung hai điểm như sau. Thứ nhất, không có việc “Westminster nay chính thức là Thành Phố Hồ
Chí Minh,” như Nghị Viên Tài Đỗ đăng bằng tiếng Anh nguyên văn
“Westminster is officially now Ho Chi Minh City” trên trang Facebook cá
nhân của ông Tài Đỗ sau phiên họp bỏ phiếu 3-2, thông qua mục 8.3 của
nghị trình vào tối Thứ Tư tuần trước. Trang
Facebook của Nghị Viên Tài Đỗ: “Westminster is official now Ho Chi Minh
City brought to you by Tri Ta, Kimberly Ho, and Chí Nguyen.” (Hình:
Nguyễn Việt Linh/Người Việt)Trang Facebook của Nghị Viên Tài Đỗ: “Westminster is official now Ho Chi Minh City” (Hình: Nguyễn Việt Linh/Người Việt)Thứ hai, Hội Đồng Thành Phố phản đối Nghị Viên Tài Đỗ đã mạ lỵ khi
dùng tên của của ba nghị viên gốc Việt trong một nội dung khác, trên
trang Facebook của ông này: “Westminster nay chính thức là Thành Phố Hồ
Chí Minh do Trí Tạ, Kimberly Hồ và Chí Nguyễn mang lại,” (nguyên văn
tiếng Anh là “Westminster is officially now Ho Chi Minh City brought to
you by Tri Ta, Kimberly Ho, and Chi Nguyen”). Trước đó Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ cũng đưa ra một yêu cầu bỏ phiếu,
liên quan lý do buổi họp khẩn cấp, nhưng đã bị hội đồng bác bỏ. Trước đó, khoảng hai chục người lên phát biểu ủng hộ Nghị Viên Tài Đỗ
và viện cớ là những gì đăng trên Facebook của ông Tài mang tính châm
biếm, không có ý nghĩa chia rẽ hay ác ý gây phương hại, như ba nghị viên
gốc Việt cáo buộc. Họ nói rằng cuộc bỏ phiếu thông qua mục 8.3 là lấy
đi quyền tự do phát biểu và độc tài. Bà
Rickie Hulsey, ủng hộ Nghị Viên Tài Đỗ:“Sao không nói chuyện lo cho
người vô gia cư. Độc tài. Gọi buổi họp này làm gì?” (Hình: Nguyễn Việt
Linh/Người Việt)Phía ủng hộ Thị Trưởng Trí Tạ, Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ và Nghị
Viên Charlie Chí Nguyễn chỉ có một số ít người Việt hiện diện phát biểu.
Lý do, theo họ, là vì người Việt đa số đang trong giờ phải đi làm nên
không tham dự đông được. Tuy nhiên, cũng qua lời phát biểu của những
người này, thì chỉ có người Việt chạy trốn cộng sản, mới hiểu được rằng
chỉ nói đến cái tên “Hồ Chí Minh” cũng quá đủ, để gợi lại quá khứ kinh
hoàng của người vượt biên, vượt biển tị nạn, tìm tự do. Trở lại phiên họp hôm Thứ Tư, 12 Tháng Sáu vừa qua, Phó Thị Trưởng
Kimberly Hồ và Thị Trưởng Trí Tạ đề nghị mục 8.3 trong nghị trình phiên
họp rằng thị trưởng và hội đồng thành phố muốn chính thức hóa quy trình
chọn xem những mục nào do các nghị viên đề nghị, được đưa vào chương
trình nghị sự của hội đồng thành phố. Kết quả mục này được thông qua với
tỷ số 3-2 (Thị Trưởng Trí Tạ, Phó Thị Trưởng Kimberly Hồ và Nghị Viên
Charlie Chí Nguyễn bỏ phiếu thuận; Nghị Viên Tài Đỗ và Nghị Viên Sergio
Contreras bỏ phiếu chống). Trước đây, theo hồ sơ, thành phố không có một chính sách chính thức
về vấn đề này, nhưng thay vào đó, chỉ dựa vào các thông lệ trong quá khứ
và nếu được bỏ phiếu đa số, đề nghị sẽ vào nghị trình. Riêng vai trò
thị trưởng, không cần phải có nghị viên bảo trợ. Ông Ngô Đình Lượng: “Ông Tài Đỗ chỉ quậy phá. Nên từ chức đi!”(Hình: Nguyễn Việt Linh/Người Việt)Chính thức hóa quy trình này sẽ đem lại sự minh bạch hơn cho công
chúng về những mục nào được đưa vào nghị trình và sẽ đơn giản hóa thêm
cho quá quy trình nghị sự. Cũng theo hồ sơ thành phố, chính sách mới là đề nghị đưa vào nghị trình phải được phát biểu trong buổi họp của hội đồng. -Bất kỳ thành viên nào của hội đồng, ngoại trừ thị trưởng, muốn để
một mục trong chương trình nghị sự phải phát biểu trong phần “Nhận Xét
của Thành viên Hội đồng” (Council Member Comments), chứ không được nói
với nhân viên thành phố. -Trong cuộc họp, người yêu cầu phải nêu chủ đề với một lý do rất ngắn
gọn tại sao cần yêu cầu điều này trong chương trình nghị sự. Hội đồng
không được thảo luận để đề nghị được bảo đảm không vi phạm luật Brown
Act trong nghị trường. -Một yêu cầu sẽ được thực hiện để tỏ ý muốn hội đồng bỏ phiếu thuận hoặc chống. -Nếu đa số hội đồng chấp thuận yêu cầu, nhân viên sẽ làm việc với
nghị viên yêu cầu để xác định ngày nào tiếp theo sẵn sàng để lên chương
trình họp. -Nếu yêu cầu không được chấp thuận đưa vào chương trình nghị sự,
nghĩa là đa số thấy không thích hợp và sẽ không được đưa vào chương
trình nghị sự. Thành viên hội đồng không thể yêu cầu lại mục này, tối
thiểu sáu tháng sau, trừ khi có sự khẩn cấp quy định bởi luật pháp, vụ
kiện hoặc chính sách mới. -Thị trưởng với tư cách là thị trưởng có thể đưa một mục vào chương
trình nghị sự qua vị tổng quản trị thành phố hoặc một diễn đàn công cộng
mà không cần sự chấp thuận của đa số dân cử trong hội đồng. (Nguyễn Việt Linh)Liên lạc tác giả: linhnguyen@nguoi-viet.com
Niên khóa 1972-1973, tôi được nhà trường phân công làm “giáo sư hướng
dẫn” lớp 12B3, tôi rất vui khi nhận nhiệm vụ này, trong công việc chung,
tôi là thầy giáo gần gũi nhất với lớp, trong tình riêng, lớp này có
nhiều học sinh là con em của bạn tôi, các em lại rất ngoan, thông minh
và tài năng. Vì cái thông minh và tài năng đó mà tôi và anh Cường phải
lao đao. Gần cuối học kỳ I, các em xin làm đặc san cho lớp, tôi tin tưởng các em nên chỉ trao đổi qua loa. Tôi hỏi: - Các em định lấy tên đặc san là gì? Nội dung tập trung chủ đề nào - Dạ Phiêu! Chủ đề chỉ là chuyện học hành, vui chơi và bày tỏ một vài ý riêng. Tôi hơi ngạc nhiên và thực tình chưa hiểu tên đặc san mà các em chọn. Các em hứa lúc nào xong bản thảo sẽ gởi tôi xem.
Đọc bản thảo tôi hơi ngạc nhiên, các em đã có một độ chín tôi không
ngờ, cả nội dung, cả hình thức và văn phong của các em. Tôi thích! Ví
như trong lời nói đầu của đặc san các em viết: Phi bạt Bạt của
Phiêu lẽ ra phải là phi bạt vì trong Phiêu ta tìm thấy PHI và YÊU. Tình
thương khi đạt tới cõi vô thường thì còn gì để nói? Yêu từ đó đã bát
ngát tình người. Sau lộ trình dài bảy lần quay của đất, giữa những
giọng nói quen thuộc nhau sau vuông cửa, giữa những khuôn mặt không quen
mà biết rõ trong bờ tường cao, khép lại đôi cánh rộng, bụi trúc văn
phòng, lề đường Nguyễn Hoàng nhả nhòa khói thuốc nhìn ai, cụm sầu chiều
hực nở vàng thông vào hành lang phòng 6. Miếng tôn sứt , gió đập khan
đài sau phòng 27, sân bóng rổ, mỗi sáng chào cờ dấu mặt cười khúc khích
…Tất cả chẳng là những sợi tơ vướng vít chân ta trước khi bước vào cuộc
sống hay sao con đường mới mà áo trắng sẽ được thay bằng áo màu, khoác
mặt nạ nghiêm trang trên một bục cao nào đó. Thế đấy, đặc san của
học trò mà có ý tứ, văn phong như vậy, điều này còn thể hiện trong các
bài khác của đặc san. Tuy nhiên vẫn có những bài mang tính đùa cợt con
nít, có bài mang tính suy tư bay bổng của tuổi trẻ, những nội dung không
bằng phẳng này, tôi có trao đổi với các thầy cô có liên quan. Ba,
bốn ngày sau khi phát hành đặc san, cảnh sát đến trường làm việc với
Hiệu Trưởng, hôm sau đến, mời tôi đến phòng Hiệu trưởng làm việc, việc
mà họ làm là trịch thu tờ đặc san và đề nghị nhà trường đuổi học vĩnh
viễn những em trong ban biên tập, với lý do trong một bài viết đã có
những lời ngỗ nghịch xúc phạm đến thầy cô giáo… Tôi hỏi “Còn gì nữa
không các anh ”, họ lắc đầu. Tôi lấy cớ bận dạy, hẹn sáng hôm sau trao đổi tiếp, trước khi đi, tôi nói thêm:
- Thu hồi đặc san thì không khó, nhưng đuổi học vĩnh viễn Ban biên tập
có đến năm bảy em học sinh, có cả tôi là điều không đơn giản và tôi đề
nghị mời thêm anh Ngô Đình Cường cùng dự (Anh Ngô Đình Cường là đại diện
phụ huynh của lớp, đồng thời có con là Ngô Đình Chính trong Ban biên
tập, còn tôi là giáo sư hướng dẫn của lớp, nhưng trong danh sách Ban
biên tập các em lại phong cho tôi là giáo sư cố vấn và đưa lên hàng đầu,
tôi muốn đưa tôi vào những người bị đuổi là cố tình làm khó mấy ông
cảnh sát). Sáng hôm sau anh Cường và tôi đến trường đúng giờ, trong khi chờ cảnh sát đến, tôi trao đổi với anh Cường:
- Cảnh sát lấy cớ các em vô lễ với thầy cô mà đuổi học, cái đó dễ bênh
vực, tôi chỉ sợ họ ghi về xu hướng chính trị và xa gần bày tỏ tinh thần
phản chiến nó ẩn hiện trong một vài bài trong đặc san. Anh Cường thêm: - Cái đó tùy anh trình bày với họ, tôi chỉ nói ảnh hưởng xấu đến cuộc đời của các cháu nếu chúng bị đuổi học. Khi cảnh sát đến, anh Cường tế nhị vén tay áo xem đồng hồ, hai cảnh sát hiểu ý , cười và xin lỗi đến muộn so với giờ hẹn. Tôi lên tiếng trước: - Xin các anh cho biết cụ thể, những điều các em vô lễ với thầy cô? - Các em đã không dùng tên các thầy cô khi kể chuyện mà ví von bậy bạ…
- À ra thế, ví von thì có nhưng bậy bạ thì không. Trong bài nói về lịch
học trong một buổi tác giả có ví von, như sắp đến giờ Pháp văn, tác giả
viết là chúng ta sắp gặp một lữ khách hàng không rất trẻ, duyên dáng
xinh đẹp của hãng Air France, hay sắp đến giờ Anh văn, tác giả viết
chúng ta sắp gặp ngài Mir Braw, hay với tôi tác giả bảo thầy vào lớp tay
không… Mỗi thầy cô có một thói quen dễ thương, các em dùng thói quen đó
để chuyện trò. Cẩn thận hơn, Tôi đã gặp trước các thầy cô trình bày,
các thầy cô đều cười và cho là chuyện con nít. Đến lúc anh Cường
thay mặt các gia đình học sinh thiết tha và chân tình đề nghị cảnh sát
rút lại, những đề xuất trên với nhà trường. Cuối cùng Hội đồng giáo
sư nhà trường quyết định chỉ đuổi học 1 tháng với em Nguyễn Thị Minh
Ngọc. Có được quyết định này chắc thầy Hiệu Trưởng đã vất vả lắm với
cảnh sát, trong cái vui chung của cái án nhẹ đó, tôi có một nỗi buồn
riêng, bởi Ngọc là em của Bs Nguyễn Sỹ Đức bạn cùng lớp với tôi ở Phan
Bội Châu, năm đó lớp tôi ra Huế học chỉ có ba người Lê Thiệu Hùng,
Nguyễn Sỹ Đức và tôi; Hùng và Đức học Y khoa, tôi học Sư phạm, buồn nữa
Ngọc là học sinh có tiềm năng thực sự, tôi chỉ sợ với cú sốc này có ảnh
hưởng xấu đến việc học của em sau này. Nhưng không, em vẫn là một
học sinh giỏi, thông minh. Em đã thành công khi vào đời, em là đạo diễn
điện ảnh, rồi giảng dạy tại trường Đào tạo đạo diễn điện ảnh ở TP Hồ Chí
Minh. Khi em làm xong bộ phim nói về Phan Thiết trong buổi chiếu ra mắt
em có mời tôi xem, thực cảm động. Anh Cường ơi ! Có lẽ anh trách
tôi nhiều chuyện, nhưng thú thực trong nghề dạy học, chuyện anh và tôi
cùng đối mặt giải quyết một khó khăn đời thường, đối với tôi có dấu ấn
sâu sắc ghi đậm trong ký ức của tôi, tôi cảm được ở anh những khôn khéo
tế nhị tinh tế như việc anh chỉ vén tay áo lên nhìn đồng hồ khi hai anh
cảnh sát đến chậm so với giờ hẹn, là một đòn tâm lý cho họ không coi
thường anh em mình, hay những lần được chuyện trò với anh ở biển Thương
Chánh, nhà bác Xuân Hải… tôi đều nhận được ở Anh điều đó, biết vậy nên
tôi không bất ngờ khi Anh có những bức ảnh để đời cho hôm nay và mai
sau. Hôm qua khi đến thắp nhang viếng Anh, tôi có xin phép Anh được viết đôi dòng để tỏ lòng thương nhớ Anh. Phan Thiết, ngày 18 tháng 6 năn 2019 FB C Binh Hoang
Tác phẩm:Qua Đồi Mộng Giải thưởng Tượng Vàng Quốc Tế - APA 1972
Lời tòa soạn: Việc cơ quan công lực Hoa
Kỳ khám phá ra đường dây “kết hôn giả” liên quan tới hàng trăm người
tại Houston, Texas và đưa ra tòa vào ngày 10 Tháng Năm, 2019, vừa qua đã
gây rúng động trong cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Để độc giả hiểu rõ
hơn về những hậu quả của “kết hôn giả” và những vấn đề liên quan đến
luật pháp của việc này, nhật báo Người Việt đã có bài phỏng vấn cựu Thẩm
Phán Phan Quang Tuệ. Thẩm Phán Phan Quang Tuệ từng phục vụ trong lãnh vực di trú từ
năm 1985. Ông từng là Luật Sư Công Tố cho Cơ Quan Di Trú và Nhập Tịch
Hoa Kỳ (United States Immigration and Naturalization Service – INS)
trong 5 năm. Sau đó ông được bổ nhiệm chức vụ Thẩm Phán Tòa Án Di Trú
tại San Francisco trong 18 năm. Ông về hưu cuối năm 2012. Trong khuôn khổ bài phỏng vấn này, mọi thông tin chỉ có tính cách
tổng quát, không có tính cách cố vấn pháp lý, bởi luật pháp áp dụng
cho mỗi trường hợp mỗi khác. Nếu độc giả có các vấn đề liên quan tới di
trú, xin vui lòng tham khảo luật sư di trú, những người có thẩm quyền và
kinh nghiệm tư vấn riêng cho quý vị. Người Việt (NV): Khi nghe tin về một
đường dây kết hôn giả do người Việt cầm đầu bị phát hiện và đưa ra tòa
hồi Tháng Năm, 2019, ông có bình luận gì? Cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ (PQT): Là một thẩm phán
có 23 năm hoạt động trong lĩnh vực di trú, những tin tức như thế này
không có gì lạ đối với tôi. Tôi không có bình luận gì về sự việc này. Bởi vì khởi sự căn bản từ luật pháp của Hoa Kỳ thì bất kỳ ai bị truy
tố đều được dự đoán là vô tội cho tới khi bị tòa tuyên án là có tội. Vì
thế chúng ta không nên phán xét vội cho tới khi có phán quyết sau cùng
của tòa án. NV: Với tư cách là thẩm phán, ông có thể giải thích rõ hơn về lý lẽ căn bản của Luật Di Trú Hoa Kỳ đối với các diện bảo lãnh đoàn tụ gia đình trong đó có diện vợ, chồng? PQT: Trước hết, muốn bảo lãnh một người nhập cảnh
tới Hoa Kỳ và định cư ở đây, thì cần phải dựa trên các điều khoản về cấp
chiếu khán. Hàng năm, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ quyết định số chiếu khán được cấp, cho
mỗi diện bảo lãnh và cho từng quốc gia. Tuy nhiên, chiếu khán dành cho
các diện bảo lãnh trực hệ như cha mẹ, vợ chồng, con cái dưới tuổi vị
thành niên của công dân Mỹ thì không có giới hạn. Các trường hợp khác
như bảo lãnh anh chị em, thì số lượng chiếu khán rất hạn chế cho nên chờ
đợi rất lâu. Với chiếu khán phối ngẫu (spouse) của công dân Mỹ, người công dân bảo
lãnh nay phải nộp đơn lên Cơ Quan Di Trú (USCIS) để xin cấp chiếu khán
và thị thực (visa) cho người phối ngẫu của họ. Chiếu khán này sẽ chứng
minh mối liên hệ vợ chồng để nhập cảnh vào Hoa Kỳ. Chiếu khán cho vợ chồng của công dân Hoa Kỳ đặt trên căn bản một
chính sách quốc gia chủ trương đề cao và bảo vệ đoàn tụ gia đình. Như vậy căn bản thì Người Bảo Lãnh (Petitioner) và Người Được Bảo
Lãnh (beneficiary) phải là vợ chồng thực sự, không phải vợ chồng giả.
Tức là họ đến với nhau dựa trên nền tảng tình thương yêu thật sự (gọi là
“good faith” hoặc “bona fide”). Một cuộc hôn nhân không dựa trên căn bản tình yêu, không dựa trên ý
định gắn bó thực sự, mà dựa trên một mục đích vụ lợi khác, thì chiếu
khán này vô giá trị. Thế nhưng chính sách nhân đạo này đã bị lợi dụng bằng việc làm giả
hôn thú (sham marriage), khiến các nhà lập pháp phải điều chỉnh lại luật
để đối phó lại với sự gian dối này. NV: Luật pháp đã điều chỉnh như thế nào để đối phó với việc kết hôn giả, thưa ông? PQT: Trước năm 1986 nếu một công dân Mỹ muốn bảo
lãnh cho người phối ngẫu thì chỉ việc hoàn thành mẫu đơn I-130 để xin
chiếu khán (và mẫu đơn I-751 để điều chỉnh tình trạng di trú, nếu cần).
Quá trình xét duyệt hồ sơ rất nhanh chóng, dễ dàng và thậm chí có thể
không phải phỏng vấn vẫn được cấp chiếu khán và thị thực và cùng lúc
được điều chỉnh tình trạng di trú thành thường trú nhân. Điều này đã bị người ta lạm dụng bằng việc kết hôn giả. Do đó, từ năm
1986, đạo luật “Immigration Marriage Fraud Amendments – IMFA” mới ra
đời, đưa ra một cột mốc “hai năm.” Cụ thể, khi một công dân Hoa Kỳ kết hôn với một người ngoại quốc (ví
dụ Việt Nam), thì người phối ngẫu chỉ được điều chỉnh di trú tại Mỹ có
điều kiện, tức là được cấp thẻ xanh có điều kiện (conditional green
card). Sau hai năm, cả hai vợ chồng phải cùng nộp đơn (joint petition)
xin hủy bỏ điều kiện di trú tạm thời trở thành thường trú nhân lâu dài.
Khi đó Sở Di Trú sẽ cứu xét, và nếu cuộc hôn nhân là hợp pháp thực sự,
người phối ngẫu sẽ được cấp thẻ xanh 10 năm và có thể gia hạn sau 10
năm, nếu không vi phạm pháp luật (permanent green card).
Ngược lại, nếu cuộc hôn nhân bị xem là bất hợp pháp từ khởi thủy là một
cuộc hôn nhân giả mạo, người phối ngẫu có thể bị bác đơn xin thẻ xanh và
phải trở về Việt Nam. Tuy vậy, cũng có những trường hợp ngoại lệ như
người phối ngẫu bị bạo hành gia đình, thì lại có điều luật nhân đạo cho
họ được ở lại Hoa Kỳ. Những người phối ngẫu có thẻ “Thẻ Xanh” (Green Card) phải định cư ít
nhất 3 năm tại Hoa Kỳ, thì mới được nộp Đơn Xin Nhập Tịch (mẫu đơn
N-400) và trải qua một kỳ phỏng vấn nữa, mới được trở thành công dân Hoa
Kỳ. NV: Nếu việc kết hôn giả bị phát hiện,
thì người bảo lãnh (petitioner) và người được bảo lãnh (beneficiary) sẽ
bị hậu quả như thế nào, thưa ông? PQT: Người bảo lãnh là công dân hoặc là thường trú
nhân Hoa Kỳ. Họ cũng chính là người làm đơn, ký vào đơn và đứng ra nộp
đơn bảo lãnh, xin visa cho người phối ngẫu. Do đó người bảo lãnh sẽ bị
truy tố và chịu trách nhiệm hình sự theo luật pháp Hoa Kỳ. Còn người phối ngẫu, tức là người được bảo lãnh, họ không trực tiếp
làm đơn bảo lãnh, thì tùy trường hợp cụ thể để xử lý. Người phối ngẫu có
thể nói họ là nạn nhân, họ không biết chuyện gì xảy ra, hay không có ý
định phạm tội. Do đó không thể kết tội họ, nếu như không có bằng chứng
nào chứng minh là họ có hành vi cố tình phạm tội. NV: Vậy người phối ngẫu đang có thẻ xanh thông qua kết hôn giả, họ sẽ bị xử lý ra sao? PQT: Như tôi đã giải thích ở trên, để bảo lãnh một người phối ngẫu
được định cư ở Mỹ theo diện vợ chồng, thì trước hết phải là vợ chồng
thật sự. Điều này được thể hiện qua chiếu khán thường trú nhân. Vậy thì khi họ kết hôn giả, sẽ xem như không có chiếu khán, vì thế mà thẻ xanh của người phối ngẫu này, không còn giá trị. Người phối ngẫu trong trường hợp này, sẽ bị thu hồi thẻ xanh và bị
trục xuất về Việt Nam. Tất nhiên còn nhiều trường hợp ngoại lệ khác. Tòa
án sẽ xét theo từng trường hợp cụ thể, “case by case.” Những người liên
quan đến việc kết hôn giả sẽ được xử riêng biệt chứ không phải xử tập
thể, hàng loạt như báo chí nói. PV: Trong trường hợp công tố viên có
bằng chứng cho thấy người phối ngẫu (người được bảo lãnh) có ý định phạm
tội, thậm chí đã đưa tiền cho người bảo lãnh để họ đứng ra bảo lãnh
diện vợ chồng bằng một hôn thú giả nhằm có được thẻ xanh thì sao? PQT: Nếu người được bảo lãnh đang di cư trên lãnh
thổ Hoa Kỳ tại thời điểm xử án, thì người này có thể bị truy tố. Nhưng
tội danh và hình phạt luật định thế nào thì tùy trường hợp cụ thể. Các trường hợp khác, chỉ cần khởi sự thủ tục dân sự (civil
proceeding) và thực hiện các thủ tục hành chính để thâu hồi quy chế
thường trú và tiến hành trục xuất mà không phải ngồi tù. Họ có thể bị
chuyển sang cơ quan truy tố và thi hành về di trú (ICE) để xử lý và tiến
hành trục xuất. Nhưng việc thực hiện trục xuất không đơn giản, cần phải
qua một tiến trình. NV: Vậy nếu người phối ngẫu còn đang ở Việt Nam, đang chờ được bảo lãnh thì sao, nếu hôn nhân của họ bị kết tội là giả? PQT: Những người này không bị luận tội theo luật
pháp Hoa Kỳ, nhưng hồ sơ của họ sẽ bị lưu trữ mãi mãi trong Sở Di Trú
(USCIS) về việc dính líu tới kết hôn giả. Họ sẽ không có cơ hội để xin
được thị thực vào Mỹ theo diện vợ chồng và có thể nhiều diện khác. NV: Quá trình trục xuất diễn ra như thế nào thưa ông? PQT: Cần hiểu rằng ICE là cơ quan truy tố và thi
hành Luật Pháp Di Trú. Việc giam giữ (custody) của ICE không có tính
cách trừng phạt mà chỉ có tính cách hành chánh nhằm giam giữ những người
bị trục xuất để chờ ngày trả họ về đất nước mà họ có quốc tịch. Thủ tục trục xuất phải dựa trên bản án sau cùng (tức là người bị trục
xuất không còn kháng án gì nữa), và áp dụng cho những người không phải
là công dân Mỹ. Trong bài phỏng vấn này, chúng ta đang nói về công dân
Việt Nam. Muốn trục xuất công dân này thì trước hết, chính phủ Việt Nam phải đồng ý nhận những người này. Xin nói rõ thêm, ngày 22 Tháng Giêng năm 2008, hai chính phủ Việt Nam
và Hoa Kỳ đã ký một thỏa ước (Memorandum of Understanding – MOU) là
chính phủ Việt Nam sẽ bắt đầu nhận những người Việt Nam bị chính phủ Hoa
Kỳ trục xuất những người đến Hoa Kỳ sau ngày thiết lập bang giao là
ngày 12 Tháng Bảy, 1995. Điều này, không có nghĩa là những người Việt Nam tới Mỹ trước ngày
12 Tháng Bảy năm 1995 thì được miễn trục xuất. Chỉ đơn giản là hai
chính phủ chưa có một văn bản thỏa thuận nào dành cho các trường hợp này
mà thôi. NV: Nhưng nếu Hoa Kỳ đã ra lệnh trục xuất mà chính phủ Việt Nam chưa chịu nhận thì sao? PQT: Nếu chính phủ Việt Nam không hoặc chưa có văn
bản nhận lại công dân của họ thì ICE sau khi giam giữ trong một thời hạn
nhất định (thường là 90 ngày), phải phóng thích những người này cho đến
khi có thể thi hành lệnh trục xuất. Nhưng lại không có một quy chế, một
văn bản nào để quản lý những người này khi phóng thích, thành thử ICE
chỉ đòi hỏi họ trình diện có thể một năm một lần, hoặc qua điện thoại,
hoặc gắn chip theo dõi vào chân. Các đời tổng thống trước, những người
này vẫn được ở cùng gia đình, co khi con được có giấy phép để làm việc.
Nhưng tới thời Tổng Thống Trump, ngay cả những người tuân thủ luật pháp,
dù đang có gia đình, con nhỏ, dù đi trình diện đều đặn, thì tất cả cũng
có thể bị giam giữ để chờ ngày trục xuất. Các cơ quan hành pháp, đã
không suy xét theo từng trường hợp cụ thể, không nhân nhượng, gieo rắc
nỗi sợ hãi cho nhiều gia đình. Điều này, theo cá nhân tôi, là một vấn đề
về khía cạnh nhân đạo, đi ngược lại với giá trị căn bản của nước Mỹ. NV: Nếu người phối ngẫu với công dân
Hoa Kỳ đã có quốc tịch, khởi đầu là từ một hôn thú giả từ hàng chục năm
về trước, nay bị phát hiện và bị kết tội, thì điều gì xảy ra với họ? PQT: Căn cứ vào Luật Liên Bang Hoa Kỳ về việc tước
quốc tịch (8 U.S. Code § 1451 part 340 – Revocation of naturalization)
và hướng dẫn tại: Volume 12, Part L, Chapter 2 công bố trên Website Sở
Di Trú (USCIS) thì: “Bất kể người nào có được Quốc Tịch Mỹ bằng cách
gian dối, bất hợp pháp đều bị tước quốc tịch.” Như vậy những người này, dù cố ý hay hay không cố ý trong việc kết
hôn giả, dù sự việc xảy ra đã lâu hay họ đã có quốc tịch bao năm trước
đi nữa, thì khi bị phát hiện vẫn có thể bị thu hồi quốc tịch. Chỉ có Văn
Phòng Bộ Tư Pháp (US Attoney Office) mới có thẩm quyền khởi sự thủ tục
và ra phán quyết về thu hồi quốc tịch. Cần nói thêm rằng, nếu một người từng tham gia vào tổ chức khủng bố,
hay một đảng độc tài như Đảng Cộng Sản trong vòng 5 năm kể từ ngày nhập
quốc tịch, nếu bị phát hiện che giấu sự việc này, thì sẽ bị tước quốc
tịch. NV: Vậy còn người đóng vai trò là người
bảo lãnh, nếu bị kết tội tham gia kết hôn giả, liệu có bị tước quốc
tịch (hoặc tước thẻ xanh) và trục xuất không? PQT: Nếu người bảo lãnh (đương đơn đứng ra nộp hồ sơ
bảo lãnh) đã có quốc tịch Mỹ một cách hợp pháp (ví dụ do cha mẹ bảo
lãnh, hoặc từng được bảo lãnh diện vợ chồng trước đó nhưng là vợ chồng
thật) thì sẽ không bị tước quốc tịch. Người này là công dân Mỹ hợp pháp
nên sẽ không bị trục xuất dù phạm tội kết hôn giả. Nhưng người này, nếu
phạm tội kết hôn giả, sẽ bị xử tội hình sự theo luật pháp Hoa Kỳ và có
thể bị kết án tù. Trường hợp người này chưa có quốc tịch, đang là thường trú nhân hợp
pháp, nếu phạm tội kết hôn giả, tùy theo mức độ nặng nhẹ, có thể bị xử
tội hình sự và có thể bị trục xuất về Việt Nam (nếu người này định cư Mỹ
sau ngày 12 Tháng Bảy, 1995). NV: Xin cảm ơn cựu Thẩm Phán Phan Quang Tuệ về bài phỏng vấn này! (Tâm An)