Friday, March 20, 2020

ANH CHÀNG HOÀI NGHI Đào Văn Bình

-Đào Văn Bình sinh năm 1942 tại Hải Phòng (Quê cha đất tổ Khúc Thủy, Hà Đông)
-Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954
-Tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa- Đại Học Luật Khoa Sài Gòn năm 1966
-Tốt nghiệp Cao Học Hành Chánh -Học Viện Quốc Gia Hành Chánh năm 1968
- 1973-1975: Phó Tỉnh Trưởng các Tỉnh Quảng Ngãi và Kiến Hòa (Bến Tre)
-Tù cải tạo từ 1975-1984
-1984 vượt biển đến Mã Lai
-Định cư vào San Jose, California từ năm 1985 và 19 năm phục vụ tại Học Khu Oak Grove, San Jose, California

Các tác phẩm đã xuất bản.
- Hồi ký Những Sự Thực Không Thể Chối Bỏ (1987)
- Thơ tuyển và kịch bản Tổ Ấm Cuối Cùng (1987)
- Truyện dài vượt biển Chọn Lựa (1989)
- Đoản văn và truyện ngắn Sóng Bạc Đầu (1991)
- Tuyển tập truyện ngắn Hương Xót Xa (1995)
- Dịch toàn bộ tác phẩm Chuột và Người (Of Mice and Men) của John Steinbeck. Bản dịch được đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong năm 1996  và các truyện ngắn nổi tiếng của Saki, Morley Callaghan, Anton Chekhov và kịch kinh dị của Robert F. Carroll. Dịch các tài liệu về thuật ngữ văn chương, cách viết hoa, cách chấm câu của văn chương Hoa Kỳ.
- Ký Sự  15 Năm (2000)
- Thiên Sử Thi của Người Vượt Biển (2002)
- Hồi Ký 20 Năm Viết Văn (2004)
- Sách Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh (2017) do Ananda Viet Foundation xuất bản .Từ năm 2005 tập trung viết về các đề tài Văn Hóa, Phật Giáo và Chính Trị Thế Giới

Lời Giới Thiệu i
1 Trời Hại Mới Chết 1
2 Chuyện Chẳng Ngờ 14
3 Nỗi Buồn Của Thần Chết  21
4 Anh Chàng Hoài Nghi 31
5 Một Ngày Trong Đời Của Ô. John 50
6 Người Về Từ Thiên Đình 50
7 Câu Chuyện Quan Vân Trường 91
8 Vương Quốc Thành Thật 99
9 Câu Chuyện Về Một Họa Phẩm Đắt Giá 116
10 Khi Mọi NgườiTu Sĩ 138
11 Con Ma Ở Rạp Hát Lido 155
12 Nghề Bẻ Cổ Thiên Hạ 171
13 Chuyện Ông Thần Thô Tục 190
14 Xóm Chài Bình Hưng 200
15 Mê Cung 210


Xóm Chài BÌnh Hưng (Đoản khúc ngợi ca biển):
       Đây là một ký sự của Văn Bình, anh kể lại khoảng thời gian sau khi ra trường năm 1966, về thực tập tại một vùng biển Phan Thiết. Các đoản thiên của Tập truyện chỉ là giả tưởng thì đây chính là những cảm nghĩ, suy tư của chàng về một xóm chài nghèo bên bờ đại dương. Tác giả không ưa thích biển vì nó u buồn, đơn điệu, tiếng sóng vỗ rì rào không ngừng luôn gợi cho ta những nỗi buồn xa vắng:
       Văn Bình ghi nhận:
 “Nếu biển rộng mênh mông thì tình của mẹ cũng vô bờ bến. Nếu biển ru ta bằng tiếng sóng vỗ rì rào buồn muôn thuở thì mẹ cũng vỗ về giấc ngủ của ta bằng giọng à ơi tha thiết.”
       Biển Thương Chánh nhỏ và buồn, một bãi biển nghèo nàn mộc mạc, những hàng thông, phi lao buông tiếng thở rì rào. Quang cảnh thật vắng vẻ quạnh hiu, tình cảm của tác giả trước bãi biển nhỏ và buồn khiến cho anh thấy cô đơn và rồi mâu thuẫn thay. Sống tại nơi mà anh cảm thấy tù túng ao ước một nơi xa hoang vắng và bây giờ nó thúc dục anh trở lại cái nơi mà mình đã sống đã quen, nay lại nhớ các bạn thân yêu ở Sài Gòn quây quần bên gánh phở rong .
       Văn Bình được giám đốc hãng đồ hộp Intraco cho chàng ở một căn phòng nhỏ ở trên gác, có giường và cái bàn nhỏ, một nơi riêng tư không phải nằm chung giường với các anh em trong gia đình như trước. Tự nhiên anh lại trở thành nghệ sĩ thích đứng bên song cửa nhìn biển khơi, ngắm những cánh buồm lô nhô xa tít, đưa mắt nhìn những chiếc thuyền quay vào bến cá.
       Chiều qua đêm tới, những bước chân nhẹ nhàng theo tiếng gió đưa, tiếng sóng vỗ rì rào từ xa vọng lại, ánh đèn của những con thuyền câu mực về đêm như choàng chiếc vương miện sáng rực như sao sa, giống như một thành phố nổi xuất hiện ban đêm rồi biền mất khi bình minh ló rạng. Ban chiều những đoàn thuyền nối đuôi nhau ra biển mang theo những chiếc đèn măng sông sáng, đàn mực tìm tới nơi có ánh sáng để làm mồi cho dân chài, biển đã lột xác thành mỹ nhân.
       Thành phố về đêm thanh tịnh và êm đềm, con đường Bình Hưng chạy ra biển đang nằm ép mình dưới ánh đèn vàng hiu hắt, đám thanh niên ra chợ cá khi choạng vạng tối, trai cũng như gái ăn mặc đẹp la cà ăn nhậu, coi hát hay đi dạo phố. Rồi những lão ngư ông trông giống như những bóng mờ trong đêm tối làm bạn với chai rượu đế để đánh dấu một ngày đã qua, cuộc đời của họ giống như con đường cô đơn dưới ngọn đèn vàng hiu hắt. Văn Bình đứng trên căn gác nhìn đường như muốn thở than trước cảnh hoang vu tịch mịch.
       Tiếng ồn ào máy chạy, tiếng người gọi nhau khiến chàng tỉnh giấc, tiếng dao băm trên thớt vang động khiến anh tưởng như một ngày làm cỗ lớn. Đó là sinh hoạt về đêm của hãng đồ hộp, từng gánh cá được quẩy vào, hôm nay cá về lúc khuya, hàng trăm người đàn bà, con gái sống bằng nghề chặt đầu cá để kịp đưa vô phòng lạnh. Chỉ cần năm nhát dao: chặt đầu, moi bụng, đánh vẩy hai mặt, chặt đuôi thế là xong. Tại đây có cả một em bé mới tám tuổi, Văn Bình tự nhiên chạnh lòng xót thương cho em bé hãy còn quá nhỏ phải lao đầu vào cuộc mưu sinh đêm hôm khuya khoắt trong khi hàng triệu em bé khác đang say sưa giấc ngủ bên nệm ấm, chăn êm, bên vòng tay trìu mến của mẹ hiền
       Hai mươi năm sống ở Sài Gòn chàng đã chứng kiến những trẻ em bươi đống rác tìm kiếm ve chai, dép nhựa... tác giả lại thấy lòng mình xe lại bởi lý do đơn giản, trong khi mọi người ao ước sự giầu sang hạnh phúc mà không làm gì để thay đổi thực trạng ấy. Bất công xã hội thì ai cũng ghét nhưng mọi người đều thích những bất công có lợi cho mình.
       Cuộc sống ở bến chài Bình Hưng bừng lên nhưng nó âm thầm với những người đang mơ màng giấc điệp, nó cũng ẩn chứa sự cay đắng, hy vọng, hồn nhiên, yêu đời. Biển khơi giờ đây chan hòa trong ánh trăng, những giải mây trắng nhẹ nhàng lững lờ bay đã che khuất mảnh trăng lưỡi liềm. Biển và đêm không chết nhưng nó cũng không ngủ mà như vỗ về giải cát đang nằm uốn lượn và ru ngủ cái thành phố nhỏ đang im lìm trong giấc điệp bằng bản tình ca buồn ra riết:
       “Gió ơi, em lạnh cho lòng ta ngây ngất,
         Biển ơi! hãy hát lên đi...”

       Văn Bình trở về căn gác nhỏ hưởng làn gió mát qua song cửa rồi mơ màng tới bóng dáng của Sài Gòn với bạn bè thân yêu với nỗi nhớ nhung bất tận.
        Tác giả kết luận:
        “Tôi nhìn lên trời, ngắm nhìn mảnh trăng vô định. Bây giờ trái tim tôi bỏ ngỏ....Tiếng băm trên thớt vẫn vang đều một nhịp... nhưng căn gác nhỏ bé của tôi trông sao hoang vắng.... bóng dáng của Sài Gòn, của các bạn bè thân yêu chạy qua trong đáy mắt với chút nhớ nhung ... đã ru tôi vào giấc ngủ chập chờn
       Một ký sự nhẹ nhàng, giản dị nhưng cũng diễn tả phong phú cuộc sống lam lũ của một xóm chài nghèo.

Đại Nghi là một kỹ sư trẻ, chuộng khoa học, luận lý lại đọc quá nhiều tư tưởng, triết học Đông-Tây, rồi bị tiêm nhiễm cho nên có tật là hoài nghi tất cả mọi chuyện trên đời. Chẳng hạn đối với người đang hăng say hoạt động thì  anh cho rằng biết đâu đó chỉ là kẻ háo danh, lấy cớ ”phục vụ cộng đồng” để thủ lợi riêng hoặc chuẩn bị ra “ứng cử”. Còn đối với kẻ nhiệt tâm, nhiệt tình quyên góp tiền bạc của đồng bào cho công tác thiện nguyện, dự án này, chiến dịch nọ, thì chàng lại nghi ngờ cho rằng, tiền quyên góp một nửa sẽ chui vào “túi áo khỉ”. Quan niệm của anh chàng là “Thời buổi bây giờ làm gì có thánh nhân. Tất cả đều vì cơm áo, gạo tiền, danh vọng nhưng che dấu bằng những mỹ từ thánh thiện, cao đẹp”.
Đấy là về mặt con người. Còn về mặt tư tưởng, triết lý thì anh cũng có quan niệm thật quái dị. Chẳng hạn đối với kẻ đang bị mọi người căm ghét thì Đại Nghi lại bảo “Chưa chắc. Biết đâu anh ta chẳng là người dễ thương?” Còn đối với kẻ đang được mọi người thán phục, ngưỡng mộ thì Đại Nghi lại cho rằng “Biết đâu vài ba năm nữa thiên hạ chả lại xúm chửi ông ta như tát nước vào mặt ?” Còn đối với chuyện mà cả thế giới cho là đúng thì anh chàng lại bảo “Coi chừng chỉ vài ba năm nữa thôi bà con mới thấy nó trật lấc!” Chẳng hạn như chuyện cả thế giới đều tin chắc Ông Saddam Hussein cất giấu một kho vũ khí hóa học và hủy diệt hàng loạt khiến nhân loại nguy tới nơi rồi. Thế nhưng sau khi Mỹ đem quân tiến vào phá tan tành đất nước Iraq thì chẳng có gì cả.
Với đầu óc hoài nghithái độ “ba phải” như vậy cho nên Đại Nghi chẳng bao giờ thương ai hay ghét ai, chẳng bênh phe này chống phe kia, chẳng lao vào những biến động thương-ghét om sòm cả trời đất và dĩ  nhiên chẳng hại ai, dù làm rụng một sợi lông chân.
Tuy nhiên trong những lúc vắng lặng tâm tư,  Đại Nghi tự hỏi chẳng lẽ trên cõi đời này không có chân lý? Bất cứ chuyện gì trên cõi đời này cũng phải có người đúng người sai chứ? Từ nỗi dằn vặt đó chàng ta quyết tâm tìm cho ra chân lý. Với ý tưởng khá “ngông cuồng” này, Đại Nghi dành dụm một số tiền, xin nghỉ giả hạn không lương một năm rồi trang bị giống như mấy “Ông Tây ba-lô”, lên đường đi tìm chân lý với quyết tâm của một người lên đường “tầm sư học đạo”. Bắt chước Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm, chàng không dám khinh thị một ai mà lần mò, tìm tòi, vấn hỏi tất cả mọi người vì chàng tin rằng chân lý phải nằm ở khắp mọi nơi. Nếu chân lý nằm ở người này mà không nằm ở trong người kia, chỉ nằm ở chỗ này mà không phổ cập ở chỗ kia thì chỉ là “chân lý dỏm”, chân lý phải có tính phổ quát.
Trước tiên chàng tìm đến một ông chủ tịch hội đồng quản trị của một hãng chế tạo vũ khí khổng lồ. Sau khi giới thiệu thân thế và khát vọng của mình, chàng lễ phép hỏi:
-Thưa ông chủ tịch, trên đời này có chân lý không và chân lý nằm ở đâu ạ?
            Ngồi dựa ngửa ra đằng sau chiếc ghế da, ông chủ tịch mỉm cười đáp:
-Chân lý có chứ. Chân lý nằm ở kẻ nào có nhiều hàng không mẫu hạm, khu trục hạm, máy bay không người lái, vũ khí nguyên tử và máy bay ném bom chiến lược tàng hình, chẳng hạn như B-2, B-52. Chính vì muốn nắm giữ chân lý cho nên họ mới tìm đến chúng tôi. Không có chúng tôi thì họ đâu còn chân lý. Cho nên có thể nói các nhà chế tạo vũ khí hay nói nôm na là “các lái súng” sẽ nắm giữ chân lý.
            Nghe trả lời thế, Đại Nghi kinh hãi cảm tạ vị chủ tịch rồi hối hả đáp máy bay qua Nữu Ước để xin gặp một ông tỷ phú nổi tiếng khắp thế giới về chứng khoán, tài chính và địa ốc. Sau hơn một tuần lễ thấy chàng kiên trì chờ đợi, có lẽ thấu hiểu khát vọng của người tuổi trẻ, ông chủ tịch cho gặp mặt. Vừa thương vừa ái ngại, ông nhìn người tuổi trẻ, hỏi:
-Cậu tìm tôi có việc gì?
-Dạ thưa, cháu đi tìm chân lý nhưng không biết chân lý có hay không?
-Chân lý có chứ. Nó nằm ở đây này…
            Nói xong ông chủ tịch vói tay mở chiếc tủ sắt sau lưng. Cánh cửa sắt bật mở, bên trong là những cọc đô-la xếp gọn ghẽ. Mùi tiền mới tỏa ra thơm phức. Lấy một cọc ném lên mặt bàn, ông chủ tịch nhún vai nói:
-Tiền là chân lý! Tiền làm thay đổi tình cảm con người. Tiền có thể phá vỡ mọi giá trị trên cõi đời này. Tiền khiến cha con, anh em, chồng vợ chia lìa. Tiền làm người ta mờ mắt cho nên thấy đúng thành sai, thấy sai thành đúng. Cậu không nghe người ta nói “Tiền vào pháp đình công lý đội nón ra đi” sao? Cả thế giới bây giờ đang bị sai khiến bởi đồng đô-la cho nên có thể nói tiền không những chỉ là chân lý mà nó còn đẻ ra chân lý. Cho nên muốn có chân lý phải có tiền. Không đô-la thì đừng nói tới chân lý.
            Nói xong ông dang hai tay ra phía trước, giơ lên cao rồi nhún vai, một cử chỉ rất phổ thông ở Mỹ để diễn tả câu nói “Nó như vậy đó”.
            Nghe ông tỷ phú nói thế, Đại Nghi rầu rĩ, nói lời cảm ơn rồi lui ra. Nhân tiện ở cùng một thành phố, chàng chợt nảy ra ý định vào tòa nhà Liên Hiệp Quốc để vấn hỏi, chắc chắn sẽ có lời giải đáp. Người mà chàng xin tiếp kiến là ông cựu tổng thư ký. Mặc dầu đã hết nhiệm kỳ nhưng do uy tín, ông này vẫn được trọng dụng và thỉnh thoảng được cử làm đặc sứ để làm “con thoi” trong những trong những vụ khủng hoảng của thế giới. Chàng nồng nàn đặt câu hỏi:
-Thưa ngài, là nơi đưa ra những quyết định trọng đại ảnh hưởng đến sinh mệnh của loài người, phải chăng đây là lương tâm của nhân loại và là biểu tượng của chân lý cho toàn thế giới? Thưa ngài, chân lý có thực không? Nếu có, phải chăng Liên Hiệp Quốc chính là cơ quan thi hànhthể hiện chân lý đó?
            Khẽ thở dài, ông cựu tổng thư ký nói:
-Cậu cũng biết đó, cơ quan này không phải do chúng tôi lập ra, mà do thế giới đóng góp. Nếu mai đây người ta không góp tiền nữa thì Liên Hiệp Quốc đóng cửachúng tôi chỉ còn nước về nhà đuổi gà cho vợ. Vì do thế giới đóng góp cho nên nước nào có nhiều tiền thì tiếng nói của họ mạnh. Khi họ mạnh thì chân lý “nghiêng” về phía họ. Đôi khi Liên Hiệp Quốc cũng đưa ra những quyết định có vẻ như “biểu tượng của chân lý”. Sở dĩ  có được những quyết định như vậy là vì nó phù hợp với quyền lợi của năm ông ủy viên thường trực của Hội Đồng Bảo An. Chỉ cần một ông phủ quyếtchân lý chết, nếu chân lý sống thì cũng chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Nói tóm lại chân lý “có” khi nó phù hợp với quyền lợi của các đại cường. Chân lý là “không” và nhiều khi trở nên nghịch lý khi nó phản lại quyền lợi của các nước lớn. Do đó chân lý không nằm ở đây. Chúng tôi chỉ là phát ngôn viên, nói đúng ra là đào kép trên sân khấu, còn đạo diễn thì đứng sau hậu trường. Khi không có “tuồng” để diễn thì đào kép thất nghiệp. Cậu không thấy Liên Hiệp Quốc nhiều khi im lặng như tờ, nhân viên rảnh rỗi ngồi đọc báo, tán gẫu, xem truyền hình hoặc vào mạng lưới “chat” (1) cho đỡ buồn sao?
            Nghe ông cựu tổng thư ký nói thế Đại Nghi buồn khôn tả. Chàng nói lời từ giã rồi không một chủ định, chàng lang thang trên hè phố rối lạc bước tới Times Square (2) lúc nào không hay. Ngửng đầu lên, chàng thấy tấm bảng hiệu bằng đèn nê-ông của một hãng truyền hình. Đây là một tổ hợp truyền thông khổng lồ, chủ nhân của rất nhiều tờ báo, đài phát thanh, truyền hình địa phương. Tin tức của đài này truyền đi không phải chỉ ở Mỹ mà cả thế giới theo dõi. Có thể nói đây là trung tâm có thể uốn nắn đầu óc, lề thói suy nghĩ của nhân loại. Cũng giống như những lần trước, sau khi điền đơn xin tiếp kiến, chờ đợi cả tuần lễ, chàng được ông tổng biên tập cho gặp mặt. Ông là một nhân vật đầy quyền thế, lương khoảng năm triệu đô-la mỗi năm. Dưới ông có cả chục nhân viên phụ tá, cả trăm “producer” đặc trách chương trình, phụ trách quảng cáo, chuyên viên nghiên cứu, văn khố, thu hình, biên tập viên, phóng viên có mặt hầu như khắp nơi trên thế giới. Ông là linh hồn của tập đoàn. Ông toàn quyền quyết định việc cắt xén tin tức, cái nào cho “đi”, cái nào vứt vào thùng rác, chiến thuật loan tin, hình ảnh nào cần đưa lên… hoàn toàn do ông quyết định. Ngồi dựa ngửa ra đằng sau, hai chân gác cả giầy lên bàn - lối ngồi của các Sheriff (3) trong các phim cao-bồi, của các “tay tổ”  hay của tổng thống Mỹ như Tổng Thống  Obama ngồi trong Tòa Bạch Ốc trong các phiên họp với các cố vấn. Nhìn chàng tuổi trẻ mặt mũi cao ráo, dáng vẻ trí thức nhưng lại có vẻ ngây thơ, ông tổng biên tập hỏi:
- Cậu gặp tôi có chuyện gì?  Xin việc hả?
- Dạ, cháu không xin việc mà muốn đi tìm chân lý. Theo cháu biết nơi đây là kho chất chứa tài liệu, lịch sử, hình ảnh của toàn thế giới. Tiểu sử, thành tích, kể cả các hành vi bê bối của các lãnh tụ, các chính trị gia đều nằm ở đây. Không một chuyện gì mà ông không biết. Không một bí mật nào - dù bí mật quốc phòng, bí mật ở Toà Bạch Ốc mà ông không biết, biết một cách tường tận và cả “bề trái” của nó nữa. Vậy thì theo ông chân lý có không và chân lý nằm ở đâu?
            Sau giây phút ngạc nhiên về người tuổi trẻ, ông phá lên cười ngặt nghẽo, rồi nói:
-Này, nói đùa thôi nhé. Tuổi trẻ không lo xây dựng sự nghiệp, lấy vợ, sinh con đẻ cái mà đi tìm chân lý thì đầu óc hơi có “vấn đề” đấy. Nhưng trông cậu có vẻ thành thật nên tôi thấy cần nói cho cậu rõ. Chân lý là cái gì thì tôi không biết nhưng tất cả mọi Sự Thực, Cái Đúng, Cái Sai, cái gọi là Chính Nghĩa, hoặc Lý Tưởng Cao Cả đều nằm ở ngay đây, ở ngay chúng tôi. Tất cả đều do chúng tôi nhào nặn ra.
            Há hốc miệng vì ngạc nhiên, Đại Nghi hỏi:
-Theo cháu biết cơ quan truyền thông chỉ làm công việc thông tin, có nghĩa là thấy sao nói vậy. Vả lại tôn chỉ của ngài là “Fair and Balance” tức “Công Bằng và Quân Bình” tại sao ngài lại nói ngài có thể bóp méo tin tức và chân lý?
            Sau một hồi cười ngặt nghẽo, ông tổng biên tập nói:
-Cậu ngây thơ quá! Tất cả những cái đó chỉ là quảng cáo. Cứ thử nhìn vào đời mà xem có công ty, ngân hàng, luật sư nào mà không nói “tận tân, tín nhiệm, bảo vệ quyền lợi chủa thân chủ ”. Có ông ứng cử viên tổng thống nào mà không hứa hẹn trăm điều tốt đẹp? Nhưng cuối cùng thì sao? Chẳng lẽ chúng tôi trương bảng hiệu “Thiên Vị và Bên Trọng Bên Khinh”?
            Tới đây thì Đại Nghi ngắt lời ông:
-Thưa ông tổng biên tập. Thế nhưng làm cách nào ngài có thể bóp méo tin tức để nhào nặn chân lý?
-Cái đó dễ lắm. Nó không phải là thủ thuật của riêng chúng tôi mà của bất kỳ cơ quan truyền thông nào khi họ thiên vị. Nguyên tắc là khi chúng tôi bênh ai thì những cái xấu của họ chúng tôi ỉm đi mà chỉ nói về những cái tốt. Nghe tin tức và bình luận mãi như thế quần chúng tin rằng đây là kẻ tốt nhưng sự thực hắn ta là kẻ xấu. Chẳng hạn đối với một cuộc chiến tranh xâm lược, muốn tạo chính nghĩa cho cuộc chiến, chúng tôi tìm cách bôi bẩn kẻ thù, ngụy tạo ra những bằng chứng để rồi cuối cùng quần chúngdư luận thế giới đứng về phía chúng tôi. Khi đó chúng tôi nắm ngọn cờ đại nghĩa “thế thiên hành đạo”. Ngoài ra, cậu tưởng chúng tôi sống vì lý tưởng hả? Xin thưa chúng tôi chỉ là một cơ sở thương mại. Chúng tôi sống vì tiền. Không có tiền thì lấy đâu trả lương cho tôi và mấy trăm nhân viên? Chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để kiếm tiền. Cậu thử nhìn lại xem cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi hai ứng cử viên quyên góp được khoảng hai tỉ đô-la. Tiền ấy chạy đi đâu? Thưa ngài nó chạy vào túi các cơ quan truyền thông ạ. Hễ ông nào có nhiều tiền thì “mua” được truyền thông. Truyền thông mạnh thì làm tổng thống. Truyền thông yếu thì thua. Ở nước Mỹ này truyền thông là vua. Truyền thông nắm cả cán cân công lý!
            Nghe ông tổng biên tập nói vậy, Đại Nghi choáng váng cả mặt mày. Chàng không ngờ nghề làm truyền thông giống như thằng Mõ của Việt Nam ngày xưa, cầm cái mõ đi quanh làng, gõ lốc cốc để loan báo tin tứcquyền thế ghê gớm như vậy. Chỉ tội nghiệp người dân bị sỏ mũi từ thế hệ này sang thế hệ khác mà không hề hay biết.
Vừa buồn vừa chán nản, Đại Nghi nói lời từ giã. Bước ra ngoài, chàng lang thang trên đường phố rồi lạc bước tới khu Brooklyn lúc nào không hay. Đây là khu của người Da Đen và đủ loại sắc dân thiểu số Âu, Á, Ấn Độ, Phi Châu, Nam Mỹ nghèo nhất Nữu Ước, nổi tiếng với những khu ổ chuột ghetto. Tại thành phố này, hầu như không một bức tường nào, không một xe vận tải nào mà không bị vẽ bậy (4) làm thành phố trở nên nhơ bẩn và xám xịt. Dường như để tô điểm thêm vẻ độc đáo - là hình ảnh của những người vô gia cư lang thang, ngủ gà ngủ gật trên hè phố, các trạm xe điện ngầm mà chính quyển chỉ báo động nhưng không sao giải quyết được. Năm nay ông thị trưởng thông báo số lượng người vô gia cư  tăng thêm 34%.  Theo thống kê, tại New York cứ 2688 người dân  là có một người vô gia cư. Nhìn các ông bà vô gia cư Da Trắng và Da Đen sát bên nhau hoặc mơ màng nhìn trời nhìn đất hoặc nhìn vào cõi hư vô một cách yên bình và bất cần đời…Đại Nghi chợt ”ngộ” ra rằng có lẽ ở tận cùng đáy địa ngục con người dễ dàng cảm thông với nhau và không còn phân biệt màu da, chủng tộc, thân thế. Rồi trong đầu chàng lóe lên một ý tưởng: Phải chăng chỗ nào không còn “phân biệt” thì chỗ ấy chân lý hiển lộ? Và rõ ràng các ông bà vô gia cư kia còn có gì để “phân biệt” nữa đâu? Vậy thì chân lý phải nằm trong họ chứ? Chẳng lẽ chân lý không có hoặc không đến với những người hiện đang sống thừa bên lề xã hội? Nghĩ được như thế chàng nảy ra ý định làm quen với một người vô gia cư để tìm hiểu chân lý. Thế nhưng đến với các ông bà vô gia cư không phải chuyện dễ. Với hình dáng bình thường như thế này, các ông bà đó tưởng mình là cảnh sát chìm hoặc nhân viên xã hội tới điều tra thì họ bỏ đi hoặc ngậm miệng không nói gì. Do đó cần phải cải trang.
Đã tới giờ ăn trưa, Đại Nghi ghé tiệm McDonald mua hai phần ăn, tìm một bãi tập trung rác cũng gần đó. Chàng bới trong mấy thùng và tìm được một chiếc áo áo khoác đã rách nhưng vẫn còn mặc được. Chàng cởi chiếc cáo khoác của mình, gói trọn vào một bao ny-lông rồi khoác chiếc áo đó lên người. Mùi hôi của chiếc áo làm chàng buồn nôn. Bới thùng rác thứ hai, Đại Nghi móc ra được một chiếc mũ nhàu nát và đội lên đầu. Nhìn quần áo và mũ đội thì chàng trông có vẻ như một người vô gia cư nhưng còn bộ mặt và đôi bàn tay sạch sẽ như thế kia thì rõ ràng là một ông vô gia cư giả. Thu hết can đảm, chàng thò tay xuống đất, quét mấy đám bụi đường rồi trét lên mặt và mu bàn tay của mình. Một tay ôm chiếc bọc ny-lông, một tay ôm hai phần ăn trưa, chân cố tình đi lảo đảo, miệng nói năng lảm nhảm, Đại Nghi bước dọc theo Fulton Street là con đường chính của thành phố. Đi một đỗi, chàng thấy trên vỉa hè, chỗ có mái hiên thụt vào bên trong của một cao ốc, có lẽ đã bỏ trống vì làm ăn thua lỗ, một ông vô gia cư đang ngồi đó. Ông ta trông giống như một quái nhân thời cổ hay một thị dân nghèo khổ chui rúc ở những khu ổ chuột của thời Âu Châu bắt đầu công cuộc kỹ nghệ hóa. Râu tóc ông ta để dài và vì không tắm gội, chải chuốt cho nên nhuốm màu đất. Vì khuôn mặt bị phủ khuất bởi mái tóc, qua chòm râu xồm, rất khó đoán tuổi của ông ta. Có thể ông ta ở tuổi bốn mươi, năm mươi, sáu mươi hoặc bảy mươi không biết chừng. Ông ta ngồi dựa vào bức tường dưới mái hiên, tay trái tựa trên chiếc ba-lô nhơ bẩn. Chiếc ba-lô căng phồng, không biết trong đó chất chứa những gì. Tay phải ông ta đặt lên lưng một con chó vàng. Đại Nghi đứng cách ông ta khoảng năm, sáu bước, quan sát một hồi rồi ngồi xuống. Có lẽ ông già vô gia cư cũng chẳng để ý chi đến sự xuất hiện của Đại Nghi nhưng người chú ý trước tiên lại là con chó. Con chó vàng nằm úp mặt xuống vỉa hè, chiếc mõm của nó dài theo mặt đất, đôi tai nó cúp xuống. Nó giương đôi mắt buồn bã nhìn Đại Nghi rồi giống như chủ, nó lại cúi xuống nhìn lòng đường. Thỉnh thoảng nó lại giương đôi mắt nhìn Đại Nghi như thế nhưng không phản ứng gì. Khuôn mặt của nó rất buồn. Hình như nó hiểu được thân phận của nó. Cũng như chủ, nó không có một mái nhà để chạy nhảy vui chơi, để vẫy đuôi mừng khi chủ nó về, được ăn những món ăn ngon mà chủ nó mua từ những siêu thị. Nó chỉ là một con chó vô gia cư. Một con chó vô gia cư cũng biết buồn và biết tủi thân. Ngồi như thế khoảng dăm ba phút, Đại Nghi mạnh dạn nhích lại gần, chỉ còn cách ông ta khoảng một thước. Tới đây thì Đại Nghi phân vân không biết phải khởi đầu như thế nào. Ngôn ngữ của giới vô gia cư chắc chắn phải khác ngôn ngữ của người bình thường. Thô tục, gắt gỏng, cộc lốc hay thế nào đó… chàng hoàn toàn không rõ. Cuối cùng thì Đại Nghi chìa cái hộp đựng đồ ăn về phía người đàn ông rồi lựa chọn một cách nói có vẻ như của kẻ vô gia cư:
-Ăn không?
            Lão già mắt vẫn nhắm nghiền, ngồi bất động, không nói một lời. Lặng ngắm lão già, Đại Nghi nói tiếp với giọng kẻ cả hơn:
-Này, có ăn không thì bảo?
            Giây lát sau, lão già từ từ mở mắt, nhìn Đại Nghi không nói gì, rồi chìa tay trái đỡ lấy hộp đồ ăn. Lão cẩn thận mở hộp ra, bẻ phân nửa chiếc Big Mac cho con chó. Còn lão thì ăn phân nửa còn lại và khoai tây chiên. Con chó được chủ cho ăn, nó mừng rỡ nhỏm dậy. Trong khi nhai, thỉnh thoảng nó ngước mắt nhìn Đại Nghi. Lão già ăn rất từ tốn như không có vẻ đói lắm và cũng chẳng thèm đưa mắt nhìn hay nói năng gì với Đại Nghi. Lúc này Đại Nghi có cơ hội ngắm lão. Khuôn mặt lão xương xương chứ không bì bì như những dân vô gia cư nghiện rượu và tỏa ra một cái gì đó thanh thoát, hiểu biết. Ăn xong lão lấy mấy tờ giấy napkin (5) có sẵn trong chiếc hộp, chùi miệng rồi lấy tay vỗ về con chó. Giây lát sau lão cất tiếng:
-Tại sao cho đồ ăn?
            Đại Nghi vội vã đáp:
-Vì thấy đằng ấy dễ thương.
-Dễ thương sao được? Một thằng homless (6) lang thang trên đường phố thì có gì dễ thương đâu? Nói dóc!
            Để chiều lòng lão già, Đại Nghi nịnh tiếp:
-Đằng ấy trông có vẻ hiền!
            Lão già lại đốp chát:
-Mẹ kiếp! Một thằng vô gia cư không hiền thì dữ với ai?
            Nghe lão già nói thế Đại Nghi bí và không biết nói thêm gì nữa. Nhưng may mắn làm sao, giây phút sau lão nói:
-Tại sao mày lại lang thang như tao?
            Đại Nghi bịa chuyện:
-Tớ bị vợ đá ra khỏi cửa!
            Nghe trả lời thế lão già phá lên cười nhưng tiếng cười vụt tắt rất nhanh. Lão gục đầu xuống một hồi rồi ngửng đầu lên, giọng nghẹn ngào:
-Tao cũng bị vợ đá như mày.
            Tới đây thì dường như hố ngăn cách giữa hai người không còn nữa. Đại Nghi thành thực nói:
-Ông kể cho nghe được không?
            Bằng giọng vừa mỉa mai, bi thương vừa khôi hài, lão nói như trong cơm mơ:
-Tao là quản lý cho một công ty, lương trăm ngàn đô-la một năm. Tao lấy một con vợ mặt mũi cũng khá xinh xắn. Cuộc sống của tao là niềm mơ ước của khá nhiều người. Con vợ tao nói nó yêu tao, nhưng không hiểu sao, có thể do Trời sinh, tính tình nó rất quái dị. Tao làm cái gì nó cũng nói sai, nó làm cái gì cũng đúng. Tao nói cái gì cũng sai, nó nói cái gì cũng đúng. Tao mua cái gì nó cũng chê đắt, nó mua cái gì cũng OK. Quan điểm, sở thích của nó về mọi vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội…đều đúng, còn của tao đều bậy. Tao cố nhịn nhục cho yên cửa yên nhà nhưng cuối cùng sức người có hạn, tức quá tao xáng nó một bạt tai. Thế là nó gọi cảnh sát đến còng tay tao rồi nạp đơn xin ly dị. Cuối cùng tao bước ra khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Vì chán ngán, vì hận đời tao tìm lãng quên qua những chai rượu và lang thang trên vỉa hè như thế này đây.
Tới đây, lão già ngưng lại rồi nói tiếp với giọng như muốn khóc:
-Cho mày hay. Đàn bà là Ông Trời! Cãi nó là chết. Nhớ nghe con. Đàn bà là chân lý. Đừng bao giờ cãi lại đàn bà nghe con!
            Nghe lão già nói thế, Đại Nghi thất kinh hồn vía. Là người chưa có vợ, chỉ bồ bịch đi chơi, ăn uống, chiều đãi nhau qua lại, Đại Nghi chưa hề biết sức mạnh của người vợ, người đàn bà. Nay nghe lão già nói “đàn bà  là chân lý” chàng chán nản vô cùng. Sau khi đối đáp một vài lời vu vơ, từ giã lão già, chàng tiếp tục lang thang trên hè phố, đầu óc suy nghĩ miên man và rối mù. Cuối cùng chàng suy luận rằng có thể có hai loại chân lý: Chân lý giữa cuộc đời đầy tương tranh đố kỵ, tỵ hiềm này và một thứ chân lý khác vượt lên trên tất cả. Mà vượt lên trên tất cả những thứ ô trược này chỉ có tôn giáo mà thôi. Nghĩ được như thế chàng quyết định mua vé máy bay qua Rome. Do sự giới thiệu của một vị linh mục, chàng được  gặp một Đức Ông quyền cao chức trọng nay đã về hưu đang sống trong viện dưỡng lão của giáo hội. Vì đã về hưu, tối ngày rảnh rỗi, chăm lo cầu nguyện cho nên Đức Ông vui vẻ tiếp chuyện chàng tuổi trẻ. Đức Ông nhẹ nhàng hỏi:
-Con gặp ta có chuyện chi?
-Dạ thưa Đức Ông, con muốn biết trên cõi đời này chân lýthật khôngchân lý nằm ở đâu? Có thể nào chân lý thuộc về đàn bà không?
Chàng vừa nói dứt lời, mở to mắt vì ngạc nhiên, vị Đức Ông nói:
-Sao con lại hỏi thế? Đàn bà tạo ra từ cái xương sườn của đàn ông. Nếu nắm giữ chân lý thì phải là đàn ông chứ sao là đàn bà.
-Thế nhưng ông già vô gia cư nói…
-Cái thằng cha đó uất ức nên nói bậy đó. Chân lý nằm ở Thượng Đế. Thượng Đếchân lý. Thượng Đế sáng tạo ra chân lý. Không có chuyện gì qua khỏi bàn tay của Thượng Đế cả.
-Nhưng…
            Đại Nghi ngắt lời vị Đức Ông và định nói thêm về những thứ chân lý mà quý ông chủ tịch hội đồng quản trị hãng chế tạo vũ khí, ông tỷ phú, ông tổng biên tập tổ hợp truyền thông, ông cựu tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vừa “dạy bảo” chàng. Nhưng Đức Ông đã chặn ngay:
-Không “nhưng nhị” gì cả. Con cứ về đọc lại Thánh Kinhcầu nguyện. Cầu nguyệntin tưởng vào Thượng Đế con sẽ thấy đâu là chân lý.
            Đại Nghi hiểu rằng đối với các bậc tu hành trọng vọng như thế này, điều tốt nhất là vâng lời, không nên tranh luận, cãi vã. Chàng mau mắn vái chào vị Đức Ông, nói lời cảm tạ  rồi sau đó đáp máy bay đi Mecca xin diện kiến một giáo sĩ Hồi Giáo. Vị này dành cả cuộc đời để nghiên cứu về Kinh Koran đang là giảng sư của một trường giảng dạy Thánh Kinh cho các giáo sĩ trẻ. Thấy chàng là người gốc Á Châu từ Mỹ tới, vị giáo sĩ vui vẻ tiếp chuyện. Sau khi lắng nghe nguyện vọng của người tuổi trẻ, vị giáo sĩ nghiêm trang nói:
-“No God but Alah”. Không có Thượng Đế gì cả. Chỉ có Đấng Allah! Thánh Kinh Koran là lời của Đấng Allah. Đó là chân lý. Không có một thứ chân lý nào khác ngoài Kinh Koran.
            Nghe trưởng lão nói thế, cũng giống như lần gặp vị Đức Ông trước đây, chàng kính cần vái chào, nói lời cảm tạ rồi từ giã.
Lang thang ở Thánh Địa Mecca một ngày, đầu óc lùng bùng bởi những gì vị Đức Ông và Giáo Trưởng nói, chàng quyết định đáp máy bay tới Thành Phố Allahabad bên bờ Sông Hằng để tìm gặp các vị Lạt Ma Tây Tạng đang sống lưu vong ở bắc Ấn Độ.
            Vào mùa này, khoảng 10 triệu dân Ấn Độ đang quy tụ dọc theo Sông Hằng - con sông linh thiêng - để tắm gội hầu rửa sạch tội lỗi. Nhìn cả rừng người, đông như kiến cỏ, quần áo có, trần truồng có, lao xuống dòng sông với vẻ mặt hân hoan, thánh thiện, Đại Nghi tự hỏi không biết dòng sông này có khả năng gì để rửa những tội mà con người phạm phải như trộm cướp, hiếp dâm, chuyển vận xì ke ma túy, buôn bán nô lệ, tội ác chiến tranh, tội diệt chủng, hủy diệt văn hóa và dân bản địa v.v…Cho dù có rửa được đi nữa thì sử sách nhân loại vẫn còn ghi, làm sao tẩy xóa được? Tại đây có khá đông người dân Tây Tạng cùng các vị Lạt Ma vượt thoát chế độ áp bức của Hoa Lục sinh sống như những người tỵ nạn lưu vong. Sau khi dò hỏi dân địa phương, chàng được tiếp xúc với một vị Lạt Ma. Sau khi nghe xong khát vọng của người tuổi trẻ, vị Lạt Ma không nói gì mà pha một bình trà. Sau tuần trà đầu, dường như thấy sự im lặng đã vừa đủ để những cảm xúc nồng nàn của Đại Nghi lắng xuống, vị Lạt Ma nhẹ nhàng hỏi:
-Con đi tìm chân lý hả?
-Dạ.
Vị Lạt Ma hỏi tiếp:
-Trước khi con người xuất hiệnthế gian này, chân lý có không?
-Dạ không có.
            Vị Lạt Ma lại hỏi:
-Thế sau khi con người biến mất trên cõi đời này, chân lý còn không?
-Dạ, chân lý cũng chết theo.
            Vị Lạt Ma nhấp một ngụm trà rồi nói:
-Vậy thì chân lý không phải là một chủ thể độc lập mà nó cộng sinh với con người, nó từ cuộc sống này đi lên, nó tùy thuộc vào con ngườibiến đổi theo tham-dục của con người
            Chậm rãi châm tuần trà thứ hai, đợi cho chàng tuổi trẻ uống xong, vị Lạt Ma mơ màng nói:
-Con người có thể đạt tới trình độ hiểu biết ngang nhau nhưng khát vọng và tham-dục của con người thì không bao giờ giống nhau. Người ta có thể đồng ý với nhau rằng một kẻ nào đó giết người nhưng tìm cách đối phó với kẻ sát nhân thì hoàn toàn khác biệt. Kẻ thì tôn thờ phong thánh,  gắn huy chương, kẻ thì lên án, kẻ đòi tử hình, kẻ bài bác án tử hình đòi đối xử nhân đạo. Hiện nay kẻ nắm giữ chân lý của loài người chính là kẻ nắm được số đông hoặc có sức mạnh tài chính, quân sự hoặc truyền thông. Thế nhưng thế giới không phải cứ như thế mãi. Khi số đông suy giảm hay một siêu cường thứ hai, thứ ba xuất hiện, chân lý cũng sẽ khác đi, loài người sẽ sống trong một trật tự mới. Đôi khi chân lý là tương quan lực lượng mà kẻ yếu thường cam chịu.
            Nghe vị Lạt Ma nói thế, Hoài Nghi hỏi:
-Thưa Lạt Ma, như vậy chân lý có hay không? Và con phải quan niệm chân lý như thế nào?
            Vị Lạt Ma hiền từ đáp:
-Chân lý có chứ, nhưng nó là trăng đáy nước. Khi nào con nhìn chân lý như nhìn mặt trăng đáy nước thì tâm địa bình ổn và không còn gì thắc mắc. Lát nữa đây, khi con từ giã ta đến một nơi nào khác, lại có một sự biện giải khác về chân lý. Nhưng tất cả đều như trăng đáy nước mà thôi. Chân lý nằm ở tất cả mọi nơi, đầy khắp vũ trụ và nó không thuộc về ai cả. Người nắm giữ chân lý cũng giống như người giữ nắm cát trong tay. Đôi khi kẻ khăng khăng nắm giữ chân lý, không cho ai chia xẻ một chút chân lý khác lại là kẻ làm khổ người ta không biết chừng.
            Nghe vị Lạt Ma nói thế chàng vô cùng ngạc nhiên, nói:
-Là giáo chủ của một tôn giáo vĩ đại mà Đức Phật không nắm giữ chân lý, cũng như không tạo ra một thứ chân lý riêng cho tôn giáo của mình như các vị giáo chủ của các tôn giáo khác sao?
-Đúng vậy. Đức Phật không sáng tạo ra chân lý và cũng không nắm giữ chân lý. Lời dạy của Đức Phật chỉ có mục đích giúp chúng sinh vơi bớt khổ cũng giống như ông bác sĩ chữa bệnh. Ộng bác sĩ không tạo ra bệnh cũng như không “nắm giữ” bệnh. Lời biện giải về chân lý nếu có của Phật giống như lời ông bác sĩ giải thích cho con bệnh biết nguyên do của bệnh và phương pháp chữa trị mà thôi.
            Nghe vị Lạt Ma nói thế, Đại Nghi không hỏi thêm gì nữa. Chàng nhắm mắt lại rồi mở mắt ra và thấy nhẹ nhõm trong người. Chàng vái chào vị Lạt Ma, nói lời cảm tạ rồi bước ra ngoài.
Giờ đây dọc theo bờ Sông Hằng đoàn người đông như kiến cỏ vẫn đang cuồng nhiệt lao xuống dòng sông tắm gội với vẻ hân hoan, thành kính lạ thường. Nhưng khác với khoảnh khắc trước đây, tâm địa chàng trở nên bình ổn. Chàng không còn thắc mắc, không còn hoài nghi , tra vấn về chân lý. Dường như tất cả những gì đang diễn ra trước mắt chàng đều “như thị và như thị” và “như trăng đáy nước”. Chàng đưa tay vẫy tay chào chào đoàn người đông như kiến cỏ đó rồi lặng lẽ bước đi. Ngày mai đây chàng sẽ đáp máy bay về Mỹ và sống một cuộc đời rất bình thường như hằng triệu con người bình thường khác, không còn hoài nghi về bất cứ chuyện gì trên cõi đời này.       
(1) Tán gẫu trên diễn đàn
(2) Khu thương mại, kịch nghệ, giải trí lớn nhất nước Mỹ nằm ở ngã tư Broadway và đường Seventh St. và được coi như ”Ngã Tư Của Thế Giới “ (The Crossroads of the World)
(3) Cảnh sát trưởng Mỹ trong các phim Cao Bồi.
(4) Graffiti : Nạn vẽ bậy lên tường, cửa hiệu, xe cộ đang là thảm họa của các nước văn minh.
(5) Khăn ăn bằng giấy.
(6) Vô gia cư.

Trích:
Mê Cung - Tuyển Tập Ngắn sắp xuất bản:

No comments:

Post a Comment