“Tôi đã được chứng kiến cảnh hẫng hụt của
nhiều người khi họ … ngơ ngác tìm kế sinh nhai, đã không ít người đòi
đảng, chính quyền cơ sở phải chia ruộng đất cho họ, và tất nhiên đảng,
chính quyền không thể moi đâu ra ruộng đất
để cho họ cày, cực chẳng đã, nhiều người đã trực tiếp đòi ruộng cha ông
mà ngày trước họ đã góp vào hợp tác xã, không ít người đã tự ý đi cày
ruộng cha ông của mình, thế là … họ được quy là công thần, gây rối,
chống lại đường lối của đảng, nhà nước, kết cục
có người bị đuổi ra khỏi đảng, có người bị bị bắt lên xã, lên huyện tạm
giam để xử lý vì đã ngang nhiên lấn chiếm đất đai của nhà nước đã giao
cho người khác.” (Vi Đức Hồi –
Đối Mặt, Chương II).
Đoạn hồi ký thượng dẫn giúp cho độc giả hiểu tại sao vỉa hè
Hà Nội lại đông đảo những người làm nghề cửu vạn. Họ sống ra
sao?
“Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có
tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm,
nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to
tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường.” (Tô Hoài.
Chiều Chiều. Phương Nam, Hà Nội: 2014).
Giữa Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại mà trải chiếu “đéo nhau huỳnh
huỵch” thì (ngó) cũng hơi khó coi. Tuy thế – và được thế – vẫn
hơn hẳn nhiều bạn đồng đội (không may) khác, đang khua “nạng gỗ
khua rỗ mặt đường làng.”
Ảnh: Hà Nội Mới
Hạnh phúc hay đau khổ (nghĩ cho cùng) chỉ là sự so chiếu, và
mọi so chiếu đều tương đối cả. Nói chi đến những người lính vô
danh, ngay cả một nhân vật tiếng tăm cỡ như thi sĩ Tế Hanh
(“từng là ủy viên ban chấp hành hoặc thường vụ
Hội Nhà Văn VN, từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của hội, từng có
chân trong ban phụ trách nhà xuất bản Văn học”) đến cuối đời cũng
đành chép miệng: “Trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống,
được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác,
thế là được rồi.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Phương Nam, Hà Nội: 2002).Vâng, đúng thế. Còn sống là “may mắn hơn khối người” rồi!
Theo thống kê của Tổng Cục Chính Trị thì đến năm 2012, toàn quốc chỉ có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Wikipedia tiếng Việt cho biết thêm:
“Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001,
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng
danh hiệu cao quý cho 44.253 Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.”
Có bà bị lọt sổ vì không đủ “kiên trinh” nên đã (lỡ) đi thêm
bước nữa – theo như tường trình của Tuổi Trẻ Online:
“Chúng tôi đến khi bà Trần Thị M. đang ăn
tối ngay trên giường. Bà đã ở trên giường như vậy gần ba năm rồi, kể từ
khi đôi chân không còn tự đứng lên được nữa. Ấy thế nhưng khi hỏi đến
chuyện xưa, đôi mắt bà sáng lên.
Bà say sưa kể về những ngày hoạt động cách mạng, những ngày tù ngục đòn roi tra tấn, thương tích tới 75% (thương binh hạng 2/4)…
“Vượt qua được hết, chỉ không chịu nổi mỗi lúc nghe tin chồng, tin con
thôi” – bà chợt trầm giọng. Ba lần ‘không chịu nổi’ ấy là vào năm 1962,
ông Võ Mười, chồng bà, hi sinh khi bà mới 30 tuổi; năm 1964, con trai út
Võ Danh của bà bị bắn chết khi vừa 6 tuổi,
đang được giao việc cảnh giới cho các chú cán bộ họp; năm 1971, con
trai lớn Võ Thái làm giao liên cho ban binh vận Khu ủy Khu V hi sinh ở
tuổi 16.
Còn lại một mình giữa đạn bom, hai lần bị bắt, giam cầm tra khảo ở nhà
lao Quảng Ngãi, năm 1974 bà gá nghĩa với một người đồng đội, ông Thái
Văn Thới.
“Chiến tranh vẫn ác liệt, đâu biết mai này sống chết thế nào. Thương
nhau, thông cảm hoàn cảnh của nhau thì về với nhau thôi” – bà kể. Ngày
21-2-2014, UBND P.12, Q.Bình Thạnh đã tổ chức cuộc họp để xét duyệt và
đề nghị Nhà nước tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng
cho bà. Phường đã có tờ trình về trường hợp của bà gửi Phòng Lao động –
thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) Q.Bình Thạnh, Sở LĐ-TB&XH
TP.HCM. Tuy nhiên, sau đó gia đình bà nhận được thông báo bà chưa được
lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Bà mẹ VN anh hùng
do đã… tái giá.”
Phải chi cái hồi giao “công tác cách mạng” cho hai đứa nhỏ (6
tuổi và 16 tuổi) mà Nhà Nước cũng xét (nét) kỹ càng như vậy
thì đỡ cho mẹ Trần Thị M. biết mấy. Dù sao, vẫn còn có điều
an ủi là nhờ đang sống ở thành phố mang
tên Bác nên tờ trình về trường hợp của bà cũng đã được gửi
tới Sở LĐ -TB&XH TP.HCM và đã được cứu xét (rồi) từ chối!Có mẹ không nhận được danh hiệu anh hùng chỉ vì lỡ “chui rúc” ở những nơi hoang vu quá. Bên Kia Đèo Bá Thở là một nơi như thế:
“Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của
nha Ðịa Dư không bao giờ có địa danh ‘Ðèo Bá Thở’. Bởi vì đặt cái tên
cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn… Ngọn đồi nằm không
xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái.
Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo
khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nưá, giang…”
“Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.” “Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi ‘bá thở’. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời”. “Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều của bà cụ. Ðược vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi: – Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi. Lão mới có giấy mẹ liệt sĩ, mỗi tháng có tiền nhưng chả vào đâu.” (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Ðèo Bá Thở.” Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn, Hoa Kỳ: 2001).
“Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.” “Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi ‘bá thở’. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời”. “Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều của bà cụ. Ðược vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi: – Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi. Lão mới có giấy mẹ liệt sĩ, mỗi tháng có tiền nhưng chả vào đâu.” (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Ðèo Bá Thở.” Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn, Hoa Kỳ: 2001).
Bà lão hẳn đã qua đời từ lâu. Những người lính thắng trận
trên đường về quê (với con búp bê cầm tay) hơn 40 năm trước e
cũng không còn mấy ai sống sót. Đám mẹ ngụy và lũ con thua
cuộc cũng thế, cũng đều đã lần lượt đi vào
lòng đất.
Kẻ Bắc/người Nam, bên thua/bên thắng nên họ đã phải trải qua
những hoàn cảnh và kinh nghiệm sống khác nhau. Duy có điều này
thì chắc chắc là hoàn toàn không khác: khi họ chết không ai
nhắm mắt!
Tưởng Năng Tiến
No comments:
Post a Comment