NHỚ NHÀ
(Bác sĩ Nguyễn Sơ Đông)
Đôi dòng về tác giả:
Bác Sĩ Nguyễn Sơ Đông là :
– học sinh tại trường Chasseloup Laubat và trường Đại Học Y Khoa ngày xưa.
– Ra trường và đi lính . Làm Y Sĩ Trưởng Sư Đoàn 25.
– Sau 75, đi tù CS. Khi về cùng vợ con liều mạng vượt biên qua ngả Biển Đông và định cư tại Mỹ.
–
Con trai thứ của Bs Đông là bác sĩ Nguyễn Đông Quan, giáo sư giải phẫu
Nhãn Khoa Đại Học John Hopkins, đã làm Chủ Tịch Y Sĩ Đoàn Hoa Kỳ trong 2
nhiệm
kỳ. Trong thời kỳ làm chủ tịch Y Sỹ Đoàn, BS Đông Quan – cùng với BS
Jonathan Lâm – đã thành lập chương trình Ambassador Health mỗi năm về
các vùng hẻo lánh của quê huơng ta, giải phẫu, điều trị cho nhiều ngàn
người bệnh thiếu phương tiện điều trị – hay không
có tiền nong đút lót để được nhập viện điều trị- tại Việt Nam. Thành
quả nhân đạo BS Đông Quan & Jonathan Lâm và bạn hữu đã gặt hái được,
là một điểm son cho thế hệ thứ 2 của Cộng Đồng Việt Nam hải ngoại.
(tóm tắt điện thư nhận được từ một người bạn thân của tác giả)
BBT/BVCV
NHỚ NHÀ
Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
Tôi
muốn đổi chữ “brillant” thành “douloureux” vì trốn chui, trốn nhủi,
vượt biên còn thua con chó đói, thì có gì là “brillant”. Sợ mang
tội với Lamartine, lại thừa một “pied”.
Tôi là
thằng “lăn chai”, lúc nhỏ suốt ngày ở ngoài đồng, lội hết mương nầy đến
rạch kia. Tôi không phải đi chăn trâu, nhưng tôi cỡi trâu “nghề lắm”.
Leo lên lưng trâu
đâu có dễ. Tôi mới sáu, bảy tuổi, đứng vừa qua khỏi ngang nửa bụng
trâu, mà trâu đâu có “mọp” xuống như voi cho mình leo lên. Vậy mà thằng
tui phóng lên ngang hông trâu cũng được, kẹp “đầu gối” (trâu) trước cũng
xong, phăng lên bằng đầu gối sau cũng “phẻ”
mà kéo đuôi cũng yên. Trâu tốt hơn “người ta”: không khi nào “đá giò
lái”, không “đá ngược” bạn bè.
Nắng,
mưa tôi có coi ra gì đâu? Mưa xối xả, mưa nặng hột,… tắm mưa càng vui.
Tắm đến chừng da tái mét, run lập cập mới thôi. Một lát – có
khi cả giờ nữa, nắng lên, khô queo,… thì lội nữa.
Tụi
chăn trâu “nhà nghề” chỉ tôi đủ thứ hết: làm sao “cột dàm” con nghé để
nó khỏi ăn mạ. Người ta vác chổi chà mà đập mầy đó (không đập
trâu đâu, vì chổi chà có thắm thìa gì nó). Nhìn dấu ở cửa hang là biết
có cua ở trỏng hay không, cua lớn hay cua “nghé” (cua con, kẹp đau lắm).
Bắt cá bóng kèo thì phải dùng một chân chận cái ngách nó lại, câu cá
trê phải sửa soạn mồi trước : đập mấy con ốc
bươu, để qua bữa sau có mùi hôi hôi là cá trê nó đớp nhanh lắm, xúc cá
ròng ròng coi chừng bị cá mẹ táp cẳng, vì bênh con (ròng ròng là cá lóc
con, cỡ 1/2 ngón tay út, kho tộ mặn mặn, cay cay… ngon hơn caviar nữa.
Mà tôi có bao giờ được ăn caviar đâu mà xạo
vậy!). Bọt trắng nhuyễn trên mặt “mương”, nhưng bọt nào là ổ cá chìa
vôi, chả làm gì được hết, bọt nào là ổ cá “xiêm”, loại cá lia thia xanh
mun, đá chết bỏ chứ nhứt định không chạy.
Lên
Saigon, “lội” gần hết “hang cùn ngỏ hẹp” của quận Tư (sau nầy là quận
Năm, dành tên quận Tư cho bên Khánh Hội), chui vào Đại Thế Giới
coi hát “cọp”, băng cầu chữ Y, qua giang sơn của ông Bảy (Bảy Viễn), đi
chen lấn giựt cái “lưỡi” ông Tiêu cúng rằm tháng Bảy.
“Nắng Saigon, anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông ”
Tôi có biết lụa là gì đâu? Hà Đông ở đâu? Thôi, tôi xin phép Nguyên Sa mà sửa lại:
“Nắng Saigon, tui đi mà chẳng ngán
Bởi vì da mốc thích “đui then” rồi.
Ra
Chasseloup, đến mùa me chín, leo lên “rung” mạnh. Me rụng đầy đầu tụi ở
dưới đất. Thằng nào ở “trển” vậy? Thằng Đông chớ ai vô đây.
Trước
Bộ Y Tế có hai cây gừa, trái tròn, ngọt, cây chót vót, lại cũng thằng
Đông leo. (Sau 75, tôi vẫn còn thấy hai cây nầy, già lão rồi,
có ai để ý tới làm chi)
Vào lính, theo đơn vị
hành quân, nhớ từng con suối nhỏ, từng gò mối, từng cây cầu khỉ,… nhứt
là những nơi “đụng” nặng. Lính tử trận. Quan cũng đền nợ nước. Thứ hai,
người
vợ trẻ đưa chồng lên Đức Hòa. Thứ bảy, đã chít khăn tang. Nhưng tôi vẫn
thương vẫn nhớ cái quận “nắng bụi, mưa bùn”… nghèo xơ nghèo xác nhưng
đầy ấp tình người. Hoàng hôn xuống, nghe ảnh ương, nhái bầu, nhái bén,
cả bao nhiêu thứ côn trùng hòa tấu “symphonie
pastorale” nghe mà rụng rún.
Giờ đây, lưu lạc xứ người, muốn nghe… có đâu mà nghe.
“Lòng quê đi một bước đường một đau ”
(Kiều)
Tâm trạng nhớ nhà là vậy
Tôi
không dám “nghĩ” hoặc “đoán” tình cảm của ai khác. Riêng với tôi thì:
tình đầu, tình đuôi, tình giữa… gì gì, thì với thời gian cũng sẽ khuây
khoả, rồi phai, rồi tàn
và rồi thuộc về dĩ vãng, dù nó “apporte chaque jour tout le bien, tout
le mal”.
Nhưng, nhớ nhà thì hoàn toàn khác, lạ.
Như một định luật tự nhiên, “tên” nào “lội” nhiều, lăn lóc với “đất
nước” nhiều,.. khi về già, nhớ
nhà càng ray rứt, càng nhức nhối.
Cái khổ là
càng muốn quên, càng lại nhớ. Có những đêm thức giấc, nhớ quá, không tài
nào ngủ lại được. Nhớ ai, ai đâu mà nhớ. Nhớ NHÀ!
Lúc
ở Chasseloup, đọc sách tả Tour Eiffel, Montparnasse, Les Invalides,
Chateaux de la Loire.. náo nức muốn xem lắm. Giờ xem qua rồi thì “thôi”.
Nó không “thấm” vào xương,
vào tủy, vào tim, vào óc như cái nhớ nhà.
“… Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương. ”
(Làng Tôi – Chung Quân)
Chắc tại tôi là đứa “chả giống ai”. Thôi đành chịu vậy.
Mấy
trang viết nầy không đầu, không kết, ý tứ lung tung, “à bâtons rompus”,
“du coq – à – l’âne”. Bà con có xem thì “xính xái”, từ bi hỷ xã dùm.
Thiện tai, thiện tai.
Thôi thì cứ xem như :“mémoires d’outre tombe” của tôi vậy.
Trước sau gì, cát bụi cũng sẽ về cát bụi
QUANDO SATIS DIXISTI, PERISTI
(Quand tu auras dit assez, tu seras mort)
(St Augustin)
“Mai đây trong chuyến tàu vạn cổ
Nếu có người thương đến tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa”
(Giang Hữu Tuyên)
Đúng, hệ lụy núi sông xưa!
“Objets inanimés, avez vous donc une âme
Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer“
Thôi đành
“Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng thử nhân sầu”
Thôi Hiệu Vậy, tôi đã làm được gì?
* Gia Đình: Trả hiếu?
–
Má tôi mất sớm quá, tôi có nhớ gì đâu, nhứt là mấy tháng cuối cùng, mỗi
lần tôi muốn tới gần Má tôi, thì các dì, cô, cậu… (đều ở nhà tôi
để săn sóc má tôi) bảo: “Con ra ngoài chơi đi, để má con ngủ”, ngủ yên…
Yên Giấc Ngàn Thu.
– Tôi có làm được gì giúp
Ba tôi đâu. Chưa xong y khoa, niềm an ủi duy nhứt của tôi là: tôi đã cố
hết sức nghe lời Ba tôi, dĩ nhiên, đôi
lần chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện “đâu đâu” làm Ba tôi không vui.
–
Tôi rất mừng là đã cùng vợ tôi quyết định “sinh tử”: chết thì chết
chung, không thể sống với vc được. Tụi nó không lương tâm, không tim,
không óc, không cả tình người. Ít nhứt, dung thân ở xứ lạ, không ai
ngăn cấm con tôi: “Mầy là con sĩ quan ngụy, không được lên cấp ba”. Đó
là nguyên văn của tên “giám hiệu” trường Petrus Ký (tôi khôngmuốn nhắc
tên mới của trường) khi đứa con trưởng của tôi
học xong lớp 9 (classe de 3è) không được lên lớp 10 (classe de
seconde). Đuổi học.
* Tổ Quốc: xin cho tôi mượn hai câu thơ của một nhà văn “gốc lính“
“Cúi đầu tạ với quê hương
Tôi còn một nửa đoạn đường chiến binh”.
Tôi
đã đội trên đầu sáu chữ: DANH DỰ, TỔ QUỐC, TRÁCH NHIỆM. Ngày nào còn
thở tôi còn tôn thờ. Chỉ khi nhắm mắt thì trách nhiệm của tôi với
tổ quốc VNCH mới kể là hết.
Je ne fléchirai pas ! Sans plainte dans la bouche,
Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel ! Liberté, mon drapeau !.
Victor Hugo (ultima Verba)
THAY LỜI CUỐI
Những dòng sau đây, tôi:
– Kính dâng quý Trưởng Thượng, Niên Trưởng đã rời Việt Nam trước 30-04-1975
– Gởi đến thế hệ trẻ, những người chưa “nếm” mùi vc.
Tôi
dạy vạn vật ở Petrus Ký từ năm 1963. Lúc bấy giờ, thi Tú Tài 1 và 2 còn
vấn đáp. Chưa khi nào tôi hỏi lý lịch thí sinh trước khi cho
điểm. Nói chung, trong suốt lịch trình thi, tất cả Giáo sư đều xử sự
như thế..
Tết Mậu Thân, con đường tiếp liệu (y
dược, y cụ..) của đơn vị tôi bị vc (đã chiếm Vinatexco, Vifon, và các
hãng kế cận) đóng chốt. Tôi phải
liên lạc với cố vấn đơn vị tôi, trình với cố vấn trưởng (cố vấn cho Tư
Lệnh Sư Đoàn) cho phép tôi dùng trực thăng riêng của ông về căn cứ 73
tồn trữ y dược, nhứt là bông, băng, băng cá nhân, nước biển và trụ
sinh..
Trớ trêu thay: người thương binh đầu tiên được truyền chai nước biển “nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một vc..
Trong
hơn bốn năm trấn ở Đức Hòa, tôi đã gọi tản thương bằng trực thăng về
Tổng Y Viện Cộng Hòa ít nhứt là mười vc bị thương nặng. Không
tản thương thì chắc chắn 100% chúng đi “chầu Bác” rồi.
Dù
mưa, dù nắng, một giờ khuya, hai giờ sáng,… chưa lần nào phi hành đoàn
hỏi tôi tản thương lính nào vậy? QLVNCH hay vc. Tất cả đơn vị Quân
Y QLVNCH đều làm như thế.
Tôi muốn viết thật rõ, hét thật to, ý nghĩ thật trong sáng:
Tôn chỉ của dân VNCH,
của QLVNCH, của chính phủ VNCH là TÔN TRỌNG CON NGƯỜI, cách hành sự chứa đầy tình người.
Sau
04/1975, bọn khát máu chóp bu vc đã ra lệnh phá tan nát xã hội miền
Nam, mà nền tảng là gia đình. Bao nhiêu gia đình sĩ quan QLVNCH,
viên chức VNCH bị gây áp lực đến đổ vỡ.
Bao nhiêu dân miền Nam bị lừa gạt, rồi bị ép tử, bỏ cho chết, chết đói, chết vì bệnh tật,… ở những khu gọi là kinh tế mới..
Bao nhiêu thanh thiếu niên “con ngụy” bị ép buộc qua Miên làm bia đỡ đạn cho vc.
Bao nhiêu trăm ngàn người VNCH đã thiệt mạng trên đường tìm tự do, thoát ách vc.
Trong
mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lần nào mà người dân Việt Nam, vốn rất
gắn bó với “quê cha đất tổ”, với “mồ mả ông bà” liều chết,
bỏ nước ra đi tìm tự do đông đến số triệu.
Tôi viết để quý vị Trưởng Thượng và thế hệ trẻ hiểu được mức độ khát máu, tàn ác, vô nhân đạo, đầy thú tính của vc.
Riêng cá nhân tôi, tôi không thù hằn vc vì:
1- Tôi đã hấp thụ nền giáo dục nhân bản miền Nam
2- vc không xứng đáng để tôi thù hằn, vì vc đã mất hẳn tính và tình người.
Tôi
rất cám ơn, thương mến, kính yêu “bà xã” tôi đã chịu bao nhiêu cay
đắng, cực khổ tảo tần giữ vững gia đình, lo cho bốn đứa con tôi.
Hiện
giờ, chúng là công dân đơn thuần (simple citoyen) của quốc gia tạm cư,
không là “quan to, quan bé” gì hết. Nhưng, người ta đã đối
xử với chúng tôi rất ấm áp tình người.
Nguyễn Sơ Đông--
No comments:
Post a Comment