Hoài về làng cũ, đó là ngôi làng hiếm hoi còn giữ được vẻ đẹp nếp xưa. Anh về hôm trước hôm sau cả xóm đã biết. Sáng xách làn đi chợ, cô hàng cá tủm tỉm nói vọng lên như hát:
- Anh Hoài chán vợ thành phố rồi à? Lại xách làn đi chợ thế này, đàn ông đàn anh vất vả quá, hay em đánh tiếng tìm cho một mối?
Có tiếng đàn bà con gái vang lên:
- Này anh Hoài ơi, đừng chê em xấu em đen, em như nước đục đánh phèn lại trong này…
Thế là cả khu chợ khúc khích xôn xao.
Ai đã từng đi chợ quê, thấy mớ rau mùi hành hoa thơm, thứ hương thơm nguyên thủy, xà lách non mơn mởn, cá tôm còn mùi bùn đất, đứng ở chỗ cô hàng xén hỏi thăm một chút, chỗ hàng thịt bỗ bã dăm ba câu, chỗ này gọi tên mình ới ơi, chỗ kia nằn nì ăn giúp vài đồng quà mới thấy được cái xôn xao, tươi tắn, ồn ào đến nao lòng mà những siêu thị đủ đầy ở thành phố không có được.
Mâm cơm quê nhà dọn lên là để thưởng thức vị ngon tự nhiên của nguyên liệu chứ không phải vị ngon nhân tạo của những loại gia vị đắt tiền. Mẹ già rồi, Hoài cũng không còn trẻ nữa, ăn uống có là bao, nhưng Hoài thèm được lui cui trong bếp, nấu bát canh cua khoai sọ thả thêm đọt rau nhút hay đĩa tép riu đỏ rọi rang với khế và lá chanh thơm phức rồi dọn lên cái mâm đồng. Khi mẹ trải chiếu ra hiên, Hoài bưng mâm cơm đặt lên giữa chiếu.
Mẹ con ngồi xếp bằng rồi so đũa, trăng sẽ rọi sáng mâm cơm suốt mấy mùa. Trăng sóng sánh trong bát canh, bóng mẩy trong bát cơm nấu bằng gạo tám, trăng tràn xuống thềm nhà hướng nam gọi gió, đầy ăm ắp khoảng sân gạch đỏ. Khoảng sân ấy ngày xưa mỗi dịp cuối xuân đầu thu ăm ắp rơm tươi. Mùa gặt ấy mà, mẹ cha sẽ lùa cơm thật vội, ăn xong còn đập lúa, thóc vàng tràn xuống sân, con cái cầm liềm cắt rơm giũ thật kỹ những hạt thóc còn sót lại rồi tung rơm ra ngõ, đợi nắng lên là có rơm thơm…
Mùa đông, một bát cà chua xào tóp mỡ nghi ngút khói hay yêu canh khoai tròn thêm vài lá thì là thơm phức là quây quần êm ấm giữa mùi tỏi tươi vừa nhổ về treo tăm tắp trên giàn tre trong sân.
Những điều giản dị ấy Hoài cứ nhắc nhớ mãi khiến vợ Hoài cáu gắt:
- Rơm thì dặm ngứa, tỏi thì hôi có gì mà đau đáu quá nửa đời?
Hoài chỉ cười thôi, nhớ quê thì trốn phố, có nơi nao an lành bằng bầu ngực quê hương. Hoài không bao giờ khiên cưỡng vợ theo ý mình. Có lẽ vì thế mà mỗi lần anh quẩy túi về quê chị cũng không cấm cản. Chỉ có điều mỗi lần Hoài ở quê lên phố nếp ăn ở lại thấy có chút gì xộc xệch, cần sắp xếp lại cho ngăn nắp, cần tập cho vào nếp. Nguyên - con trai Hoài từng trách:
- Bố về quê lâu quá, đến nhà mình mà cũng chẳng thấy thân quen.
Mẹ Hoài vẫn giữ thói quen ăn trầu, ngoài tám mươi mà hàm răng nhuộm thuốc vẫn còn đen bóng, khi mẹ cười răng đều tăm tắp hạt na. Nụ cười của mẹ bao dung và hiền hậu biết bao khi Mai cắp thúng ngô đi vào con ngõ, con Mực quen người chạy ra vẫy đuôi tíu tít, Mai chuyển thúng ngô ra trước bụng, ngượng nghịu rồi đặt xuống hiên. Mai ngồi ghé mép chiếu, từ tốn thưa rằng ngô mới bẻ, con mang biếu bác và anh Hoài ăn lấy thảo. Hoài dậy lấy thêm cái bát con và đôi đũa, nhưng Mai đứng lên, vân vê tà áo rồi về. Nhìn Mai đi khuất qua con ngõ, Hoài mới hỏi mẹ:
- Mai lập gia đình sao không ai báo con?
Mẹ gắt:
- Ai bảo nó lập gia đình?
- Nhưng con thấy bụng…
- Anh thấy đúng rồi đấy, lỗi cũng do anh.
Mẹ nói có sai đâu, Hoài là trai làng Diềm mà không biết hát dăm ba làn điệu quan họ, bạn về không biết giữ chân bằng Người ở đừng về, bạn đến nhà cũng không biết hát Khách đến chơi nhà, đốt than quạt nước pha trà mời người xơi… Bảy tuổi Mai đã hát đúng vang rền nền nảy. Hội Lim, Mai làm chị cả ngồi tựa mạn thuyền rồng hát cho anh hai thổi sáo. Hội tan, chị cả anh hai lưu luyến mãi ở mom sông, anh hai qua bên kia sông là anh có người thương rồi, chỉ còn chị cả với rặng tre chắn lũ, với trăng non yếu ớt không đủ soi nước mắt nhạt nhòa, chị cả băng đồng về, áo tứ thân quét đất, nón quai thao gió giật bay đi. Có dài lắm đâu một thôi đê thế mà tiễn bạn hát hết một thời son trẻ.
Gái làng Diềm chẳng thiếu người như chị cả, họ kiếm một đứa con rồi đợi hội Lim. Vào hội hát “em còn son, anh cũng còn son”, “có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà”, hội tan lại gánh gồng cấy hái nuôi con…
Mẹ trách Hoài câu ấy xong thì vào giường nằm, Hoài thu dọn mâm bát rồi ra bể múc nước luộc ngô, ngô nếp bánh tẻ bẻ sơ lớp áo già xếp vào nồi, Hoài khua cái gáo gỗ trong bể nước thấy trăng lóng lánh tan ra. Nhà có bếp gas nhưng Hoài vẫn nhóm bếp, bẻ củi chất dưới kiềng. Mẹ giữ được tất cả nếp xưa, kể cả mấy cây ráy đã bóc lá không biết bao nhiêu lần, tàu cao nhất cũng vươn tới gần nóc bếp.
Sau thời bao cấp, trong khi dân làng thiếu thốn thì nhà Hoài vẫn sống phong lưu. Mẹ chăm chỉ ruộng đồng và không biết bằng cách nào mẹ bắt mối được với những bà vợ tận trên Hà Nội có chồng đi Liên Xô. Mẹ gom hàng của các ông chồng gửi về cho họ rồi phân phối khắp mấy huyện, từ giun xe đạp, thuốc men, vải vóc đến thau nhôm, bàn là… thượng vàng hạ cám. Trong số hàng mà mẹ bán, Hoài lục tìm được hộp màu vẽ, đó là món hàng xa xỉ chỉ dành cho đám cậu ấm cô chiêu. Nhưng mẹ để dành cho Hoài, mẹ xem tranh Hoài vẽ rồi bảo có triển vọng. Mai xem tranh thì cứ rúc rích cười suốt, Mai bảo có giống đâu, cổ con gái gì mà dài như cái cần câu, hoa lục bình sao không trôi líu ríu… Tranh ấy dân thành phố mới dám bỏ tiền mua về treo ở nơi trang trọng, bình phẩm hết ngày này sang ngày khác. Mai chỉ mê canh hát, mê anh hai thổi sáo tương ngộ tương phùng.
Mai sinh con gái đúng hôm rằm, gái hôm rằm trai mùng một, mẹ giục Hoài xúc ống gạo mang sang. Làng Hoài có tục lệ lâu đời, hễ người đàn bà nào trong làng không lấy chồng mà kiếm được đứa con, thì chòm xóm mỗi người mang sang nắm gạo, gạo ấy mang xay ra quấy bánh đúc, rồi thì phân phát mỗi người một miếng mang về. Hoài cứ chần chừ trong gian bếp chật ních, anh loay hoay sửa cái bóng điện nhấp nháy mãi mới chịu sáng, thắc thỏm nghĩ rồi đây một con một mẹ, không biết Mai xoay xở thế nào. Trên nhà mọi người đang bàn bạc hai sào lúa nếp muộn ở chân ruộng trũng nhà Mai còn chưa kịp gặt, rủ nhau mấy hôm nữa lúa chín đẫy thì đi gặt giúp, xưa nay xóm làng vẫn quen bảo bọc nhau. Hoài nói với mọi người anh cũng muốn xuống đồng, thế là trong nhà lại rộ lên một chặp đưa đẩy chòng ghẹo người thành phố. Mai phần Hoài cháy bánh đúc mang về biếu mẹ. Cháy bánh đúc nấu rơm vừa lửa, mẹ vẫn thích ăn từ ngày xưa…
Hoài và chòm xóm xuống đồng, đàn bà con gái thì gặt lúa, đàn ông xén rạ, bó lượm gánh ra đường lớn chất lên xe bò. Mỗi người một tay một chân, xế trưa là gặt hết hai sào nếp. Ai về nhà nấy ăn cơm hẹn trăng lên sang đập lúa cho mát. Nếp cái hoa vàng không ai mang tuốt cả, phải đập tay để giữ những cọng rơm cứng cáp, cột đầu bông lại rồi treo lên hàng tường gạch đều tăm tắp từ ngõ vào đến hết sân. Rơm ấy bện chổi, làm né tằm thì bền mà thơm lắm.
Hoài sang sớm nhất, anh ngồi bên hiên sửa lại mấy cái néo tuột dây, Mai đứng bên cửa sổ vừa đu đưa chiếc nôi mây cho con vừa khe khẽ hát. Cạnh chỗ Mai đứng là chiếc bàn mà lúc còn sống cha Mai ngồi khám bệnh bốc thuốc. Ở đấy lúc nào nắng cũng yếu ớt xuyên qua tán lá cây rọi vào, thìa đè lưỡi khám viêm họng luôn để trong cái nắp phích bằng nhôm đặt trên bậu cửa sổ, mỗi lần khám bệnh ông lại rót nước sôi vào tiệt trùng…
Thuở bé Hoài mắc chứng hen sữa, thành ra anh cứ qua lại nhà Mai suốt, lần nào khám cho Hoài xong cha Mai cũng vọng xuống nhà gọi: “Mai, ra vườn hái ít cam để anh Hoài mang về vắt nước uống cho nhẹ phổi”. Khi thì: “Mai, đào cho anh Hoài mấy nhánh gừng đặng về hấp mật ong con”. Giọng nói của cha Mai Hoài còn nhớ như in, như được thâu lại hàng trăm lần bằng trí nghĩ.
Rồi chòm xóm sang, tiếng thậm thịch dẻo dai của những lượm lúa mẩy vang trên cối đá, tiếng nhả rơm vun vút, tiếng giũ rơm, tiếng trang cào thóc, tiếng vò bông lúa sót, tiếng nói cười, tiếng bé con trong nhà ngủ dở giấc ré khóc lên, tất cả chan hòa và đầm ấm khơi lên trong lòng người những tình cảm tốt đẹp và dịu dàng. Ai đó đã rang xong mẻ thóc mới trong bếp, mùi nẻ rang thơm phức, đám đàn bà con gái nghỉ tay cắn chắt, đàn ông ngồi điếu đóm uống trà hãm trong cái ấm tích. Hoài cào gọn thóc vào một đống, đậy tấm bạt lên rồi chèn lại cho gió khỏi tốc, anh dặn Mai:
- Trăng quầng đấy, sáng mai anh sang trang thóc phơi cho, mới sinh hãy nghỉ ngơi đi đã.
Nhìn đứa bé ngủ say trong vòng tay mẹ, đôi má bầu bĩnh khiến anh muốn chạm vào nhưng mày thóc dính đầy người sợ làm dặm con bé.
Ngày vợ anh sinh con, anh đang đi tu nghiệp ở nước ngoài, khi trở về con đã biết đi lẫm chẫm thành ra cái cảm giác nhìn đứa bé con ngủ bình yên trong tay mẹ anh mới bắt gặp lần đầu.
Hoài về nhà khi trăng đã đứng giữa trời, vằng vặc sáng ngự trị cả khối thiên nhiên rộng rãi, trăng trùm lên xóm làng mảnh chăn ngà dìu dịu cho nhà nào nhà nấy ngủ an lành. Tiếng chão chàng rộ lên rồi im bặt khi Hoài múc nước bể lên xối cho mát, cho trôi đi mày thóc, mồ hôi. Đêm ấy là đêm hiếm hoi Hoài đặt mình là ngủ ngay đi được. Mẹ dậy sớm, ngồi trên phản têm trầu, bà nhắc Hoài rằng Mai nó nhắn có chị em hàng xóm phơi thóc cho rồi không phải sang nữa, bánh cuốn thì con bé Hằng cháu con chị cả mang cho, mẹ phần anh trong chạn bát, mệt thì ngủ tiếp, còn không thì dậy rửa mặt cho tỉnh táo chứ đừng nằm ươn nó hư người.
Anh với tay mở cửa sổ, nắng trong vắt sóng sánh phết lên những tấm song gỗ, một cành na sà vào, anh đưa đẩy trí nghĩ về thành phố. Nắng thế này những ngôi nhà ống như những chiếc hộp đổ mồ hôi nằm chen chúc nhau cả ngày nghe tiếng máy lạnh rù rì buồn tẻ. Người ta tràn về thành phố, thành phố như bà mẹ đông con, lúc nào cũng tất bật đêm ngày, bà mẹ ấy ẵm bồng bú mớm nuôi lớn bao nhiêu giấc mơ, cũng đòn roi cho con cái không ít…
Mẹ lại nhắc:
- Dậy rồi thì ra bể múc nước vã cho tỉnh ngủ đi con, chiều nay Nguyên nó về đấy, anh xem đi chợ có món gì ngon nấu đãi cháu tôi.
Nguyên về khi xâm xẩm tối, đậu xe ngoài đường lớn rồi đi bộ vào nhà. Cơm tối có canh cua, trạch om củ chuối, cà muối xổi. Bà đã dọn giường trải chiếu cho thằng cháu đích tôn từ chiều, nhưng ăn cơm xong Nguyên nói phải về thành phố. Cậu hào hứng kể cho bà và bố nghe chuyến đi phượt mà bạn bè lên kế hoạch gấp sẽ khởi hành vào sáng mai, về rừng Vĩnh Thạnh, về sông Kôn tuyệt đẹp nằm ở dải đất miền Trung. Bà có hơi phật lòng, Nguyên vừa bóp vai cho bà vừa nịnh:
- Con sẽ tìm ra loại nấm linh chi to như cái nón, hái tận gốc lên còn mềm nhũn trên tay, con mang về biếu bà sắc uống, bà cứ đẹp cứ khỏe thế này mãi cho con nhờ.
Bà cười:
- Cha bố anh, khéo nịnh, muốn tôi vui thì lấy vợ sớm đi.
Hai bà cháu cứ giận lẫy rồi nịnh nọt như thế cho đến khi trăng chênh chếch ngọn cau. Hoài tiễn con ra chỗ đậu xe, đi bên con, bên vóc dáng vững chãi, chắc nịch và thẳng thớm, Hoài bỗng thấy cảm động và nhớ vợ, đúng hơn là biết ơn vợ mình. Chị là người đàn bà thức thời, không bao giờ cho phép mình tẻ nhạt, những bước đi quan trọng trong sự nghiệp của Hoài, chị góp phần công sức không nhỏ. Nguyên nhìn vào mắt bố:
- Con nghi mẹ có bạn trai, bố ạ. Con đã để ý mẹ hơn tuần nay rồi, chắc chưa đến nỗi nào, nhưng nếu bố không về thì cũng đáng lo đấy.
Hoài hơi bất ngờ, nhưng tuyệt nhiên không phẫn nộ hay thất vọng, Hoài đón nhận cái tin ấy bằng tâm thế của một người từng trải. Hoài thậm chí đã nghĩ đến viễn cảnh ấy khi thấy vợ hay đi lại trước gương, thấy chị đăng ký tập gym, yoga, dancesport. Mỗi lần đi tập, thấy Hoài dắt xe ra ngõ cho mình, chị lại nói một câu quen thuộc:
- Em phải tập cho thon thả, giữ gìn vóc dáng để giữ chồng.
Đi tập về, thấy Hoài lúi húi nấu ăn, cũng may là Hoài thích nấu ăn và coi đó như một thú vui, chị hay ôm chồng từ phía sau, nhón tay lấy thức ăn trên bếp, vừa khen ngon vừa càu nhàu ông thầy dạy dance có cái miệng hôi.
Từng bươn bải khắp nơi, chị không phải là người đàn bà duy nhất của Hoài. Càng ngày Hoài càng nhận rõ những bâng khuâng, rung động, thiết tha một cách vẹn tròn là thứ vô cùng xa xỉ. Nếu sự thật như con trai anh lo lắng thì ngay lúc này Hoài cũng chưa biết đối diện với nó thế nào. Anh hơi bối rối, không biết sẽ trả lời ra sao cho con bớt băn khoăn. Nguyên lên tiếng trước:
- Bố sẽ về nay mai chứ?
- Ừ, nay mai thôi con.
Nguyên chào anh rồi lên xe nổ máy, chiếc xe bốn bánh quét ánh sáng trắng rỡ lên con đường bê tông, hai bên đường cỏ mọc liêm liếm lên xanh óng ánh.
Hoài bách bộ về nhà, nghĩ thế nào lại rẽ vào ngõ nhỏ nhà Mai, đứng sát tường gạch thơm mùi rơm mới, mấy dây mơ dại rủ xuống cọ vào trán Hoài ram ráp, Hoài đưa tay bứt, dưới trăng mấy nụ hoa đang he hé tím biếc. Giọng Mai ru con vọng ra ngõ: “Bồng bồng con nín con ơi, dưới sông cá lội trên trời chim bay, ước gì mẹ có mười tay…”.
Nghe một người đàn bà làng Diềm ru con, ít ai không cảm động, lời ru gửi gắm vào giấc ngủ của bé thơ tình mẹ ngọt ngào âu yếm, mà cũng gửi cao xanh chút tủi hờn.
Với Mai, Hoài lúc nào cũng giữ được thứ tình cảm trong sáng, rõ ràng và thuần khiết. Mỗi lần bắt gặp thứ tình cảm ấy Hoài thấy mình trẻ lại, trong lồng ngực như có những cánh én vút lên không trung. Đó là thứ tình cảm tựa hồ như anh em nhưng khách sáo hơn một chút, tựa như bè bạn nhưng không bỗ bã mà chính Hoài cũng không gọi được tên.
Hoài về nhà, hơi ngạc nhiên khi thấy dây mơ dại vẫn nằm trong tay, anh đặt nó lên bể nước. Chiếu vẫn trải trên hiên nhà, hồi tối anh quên gập lại, anh định nằm đấy ngủ cho mát nhưng trăng sáng quá, nhìn lá nguyệt quế láng mướt, anh biết trời đổ sương. Hoài vào nhà…
Qua đêm, Hoài tỉnh giấc khi trăng còn chưa lặn nhưng mặt trời đã ló những tia nắng yếu ớt. Anh bước ra cửa đã thấy mẹ ngồi đấy tự lúc nào. Bà ngồi ép mấy chiếc quạt mo cau, bà bảo đêm qua mấy tàu mo vừa rụng, quần áo đồ dùng mẹ đã xếp cả vào túi xách, nhắc Hoài nội trong hôm nay phải về thành phố, không muốn đi thì mẹ cũng đuổi. Người già lúc nào cũng có những dự cảm xa xôi.
Giữa buổi thì Hoài đi, anh ghé qua nhà chị cả bảo mấy đứa cháu sang đỡ đần bà. Con đường độc đạo dẫn ra đường lớn một bên là những ngôi nhà bình yên giữa vườn cây ăn quả, một bên là cánh đồng đã gặt chỉ còn trơ gốc rạ. Những gồi rạ được chống lên cho mau khô như hàng ngàn chiếc nón úp đứng san sát nhau khắp cánh đồng. Có mấy đụn khói nhỏ bốc lên, hẳn là lũ trẻ nhóm lùi ngô sắn. Anh thấy lòng nhẹ nhõm, trời trong quá, từng tảng mây trắng xốp thong thả trôi trên nền trời xanh thẫm, thi thoảng trên một lùm cây bên đường, đàn chim nhỏ lại tung mình bay vút lên.
Hoàng Hiền
No comments:
Post a Comment